
Trong số những kỳ quan của nhân loại, không thể không kể tới các kim tự tháp khổng lồ nằm giữa sa mạc nằm ở Ai Cập. Ngay cả với sự trợ giúp của công nghệ và các thiết bị tân tiến, chúng ta vẫn chưa thể làm rõ được rằng ai mới thực sự là người đã xây các kim tự tháp, và họ đã làm điều đó thế nào.
Đó là cho tới khi cuốn nhật ký được gọi là "Cuộn sách Biển Đỏ" được tìm thấy. Sở dĩ có tên gọi này là bởi nó có xuất xứ từ Wadi al-Jarf - một bến cảng nhộn nhịp - cách đây hơn 4.000 năm tại vùng ven Biển Đỏ, Ai Cập.
Cuộn sách Biển Đỏ không chỉ tiết lộ quá khứ xa xôi của Wadial-Jarf, mà còn chứa đựng những lời kể của nhân chứng về một người đàn ông có tên là Merer. Đây có thể là một trong những người đã tham gia xây dựng Đại kim tự tháp vĩ đại của Pharaoh Khufu.
Theo lời kể của Merer, những người Ai Cập cổ đại gọi là "The Bush" xuất phát từ bến cảng, dẫn đầu các con tàu của pharaoh đi qua Biển Đỏ đến Bán đảo Sinai. Đây là khu vực có giàu quặng kim loại, đặc biệt là đồng.
Được biết, đồng là kim loại cứng nhất hiện có trong giai đoạn này và người Ai Cập chắc hẳn đã cần nó để cắt đá trong quá trình xây kim tự tháp khổng lồ. Bằng chứng là khi tàu của Ai Cập quay trở lại cảng, chúng đã chất đầy đồng bên trên. Sau đó, đồng được bảo quan trong các căn phòng bằng đá vôi.

Merer mô tả về những công việc mà nhóm của ông đã thực hiện trong khoảng thời gian 3 tháng xây dựng Đại Kim tự tháp. Thú vị thay, điều này đã xung đột với một những nhận định trước đây của giới sử học, khi người ta cho rằng những nô lệ là lực lượng lao động chính đã xây dựng nên các kim tự tháp vĩ đại.
"Cuộn sách Biển Đỏ" tiết lộ, họ có thể là những người thợ lành nghề, được tập hợp từ khắp nơi, và được nhận thù lao cho công việc của họ.
Theo lời kể, nhóm của Merer bao gồm khoảng 200 người thợ lành nghề tới từ khắp nơi trên Ai Cập, và chịu trách nhiệm thực hiện mọi nhiệm vụ liên quan đến việc xây dựng công trình vĩ đại.
Merer ghi lại rất chi tiết cách nhóm của ông lấy những khối đá vôi mà sau này được sử dụng để ốp trần kim tự tháp từ các mỏ đá ở Tura và đưa chúng bằng thuyền dọc theo sông Nile đến Giza.
Sau đó, Merer và các công nhân tiếp tục quay lại mỏ đá để nhận một chuyến hàng mới. Tuy nhiên, cách thức để xếp khối đá này và tạo thành kỳ quan kim tự tháp lại không được nhắc tới.
Nhật ký của Merer thậm chí còn cung cấp cái nhìn thoáng qua về một trong những kiến trúc sư đã thiết kế nên kim tự tháp. Đó là Ankhhaf, anh trai cùng cha khác mẹ của Khufu, người giữ chức vụ cấp cao, được mô tả là "quản lý mọi công việc của nhà vua".

Vì ở thời các pharaoh, Ai Cập không có đơn vị tiền tệ, nên việc trả lương cho những công nhân thường được quy đổi bằng thực phẩm. Đơn vị cơ bản trong cấp bậc tiền lương là "khẩu phần", và người công nhân sẽ nhận được ít hay nhiều tùy theo thứ hạng của họ trên thang hành chính.
Họ dường như cũng không bị ngược đãi như đối với nô lệ, mà sở hữu chế độ ăn khá cân đối gồm bánh mì, nhiều loại thịt, mật ong, và các loại đậu hũ. Bia cũng là loại đồ uống được liệt kê trong danh sách.
Cùng với nhau, những người này đã xây dựng nên quần thể kim tự tháp Giza - một trong những kỳ quan vĩ đại của nhân loại - gồm 3 kim tự tháp: Khufu, Khafre, Menkaure, và một số công trình vệ tinh nhỏ khác. Trong đó, lớn nhất là Kim tự tháp Khufu, được xây dựng từ khoảng 2560 năm trước Công nguyên.
Kim tự tháp là biểu tượng của sức mạnh và phú quý của nền văn minh Ai Cập cổ đại. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu và thảo luận liên quan, song vẫn còn rất nhiều bí ẩn về cách thức và công nghệ mà người Ai Cập cổ đại đã sử dụng để xây dựng nên những công trình vĩ đại này.
Nguồn: dantri.com.vn
Tế Giao là cuộc lễ tế trời đất, có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa cổ đại rồi lan truyền sang một số nước trong khu vực. “Giao” là vùng đất bên ngoài kinh thành, người xưa cử hành lễ tế trời ở Nam Giao vào ngày đông chỉ và tế đất ở Bắc Giao vào ngày hạ chí. (Lý Hồng Phúc (biên tập), Khang Hy tự điển, Hán ngữ đại từ diễn xuất bản xã, Thượng Hải, 2005, tr. 1257). Tế Giao được thực hành theo quan niệm và nghi thức Khổng giáo, trong đó, vua được xem là “thiên tử”, đại diện dân để cúng tế trời đất và cầu xin được ban cho phong điều vũ thuận, quốc thái dân an. Ở Việt Nam, Tế Giao được tiếp thu và thực hành lần đầu tiên dưới thời Lý (1010-1225). Chỉ riêng thời Trần không cử hành lễ Tế Giao, các triều đại quân chủ Việt Nam còn lại đều coi đây là đại lễ và cử hành nghi lễ một cách trọng thế. Cách thức Tế Giao thay đổi ít nhiều theo từng triều đại, khi thì phân tế, khi thì hợp tế cả trời và đất ở Nam Giao. Cuộc lễ phản ánh một cách đầy đủ những quan niệm, tư tưởng, các giá trị văn hóa nghệ thuật đặc trưng của cung đình Việt Nam trong lịch sử.
VietTimes -- Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc, UNESCO đã ghi tên cố đô Bagan của Myanmar là Di sản Thế giới vào ngày 6/7 vừa qua, sau gần một phần tư thế kỷ, khu phức hợp các ngôi chùa Phật giáo này lần đầu tiên được đề cử.
Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay còn bảo lưu một số truyền thuyết về hát Xoan: Ở làng Phù Đức xã Kim Đức thành phố Việt Trì còn kể lại rằng: " Từ thuở Vua Hùng dựng nước, một hôm vào buổi trưa ngày 13 tháng chạp, ba anh em vua Hùng đi tìm đất mở mang kinh đô có đi qua thôn Phù Đức và An Thái dừng chân nghỉ trưa tại một khu rừng gần thôn. Trong khi ngồi nghỉ, ba anh em Vua Hùng nhìn ra bãi cỏ trước mặt, thấy có một đám trẻ chăn trâu vừa chơi các trò chơi như đánh vật, kéo co lại vừa hát những khúc ca nghe rất hay. Thấy vậy, người anh cả nhà họ Hùng liền bảo hai em dạy các trẻ mục đồng hát một số điệu mà họ mang theo. Về sau, để tưởng nhớ công lao của ba anh em vua Hùng, hàng năm cứ đến ngày 13 tháng chạp âm lịch, dân làng lại làm bánh nẳng để cúng vào buổi trưa và cúng thịt bò vào buổi chiều để thờ anh Cả vua Hùng được nhân dân suy tôn là đức Thánh Cả. Đến ngày mùng 2 và mùng 3 tháng giêng âm lịch, dân làng Phù Đức mở hội cầu để cầu Đức Thánh Cả phù hộ cho "Dân khang, vật thịnh, mưa thuận, gió hoà, mùa màng tươi tốt". Trong hội cầu, họ diễn lại cảnh hát xướng để nhớ lại sự tích các vua Hùng dạy dân múa hát và chơi các trò chơi dân gian. Do vậy, hội cầu đã trở thành lệ làng hàng năm và bao giờ cũng có trò hát xướng mở đầu...".