“Ma nhai” 摩 厓 là “văn tự khắc trên vách đá tự nhiên ở sườn núi hoặc hang động”. Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, gồm 78 văn khắc bằng chữ Hán và chữ Nôm với nhiều nội dung, thể loại văn học của các vị vua, quan triều Nguyễn, cao tăng, trí thức, có niên đại trải dài từ nửa đầu thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. Trong số các ma nhai xác định được niên đại thì sớm nhất là ma nhai Ngũ uẩn sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc 伍緼山古跡佛寂滅樂 của thiền sư Huệ Đạo Minh được khắc bản năm Tân Mùi (1631), muộn nhất là bia ma nhai Phụng Tạo Quán Thế Âm Bồ Tát Tôn Tượng (Phật lịch 2518 – Ất Mùi 1955)..
Đây là nguồn tư liệu độc đáo, quý hiếm, không thể thay thế, được giới nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài rất quan tâm bởi nó mang hệ giá trị trên nhiều mặt: lịch sử, địa lý, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa – giáo dục.
Những di sản này lưu trữ những “ký ức” về các mối quan hệ giao lưu, tiếp xúc kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực trên tuyến đường hàng hải cũng như vị thế, vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong các cuộc hôn nhân quốc tế ở thế kỷ XVII.
Tại động Hoa Nghiêm có 20 ma nhai. Động Huyền Không hiện đang lưu giữ 30 ma nhai, trong đó có ngự bút của vua Minh Mạng “Huyền Không Động” 玄空洞. Động Tàng Chơn có 20 ma nhai. Động Vân Thông có 02 ma nhai. Động Linh Nham có 03 ma nhai. Tại hang Vân Căn Nguyệt Quật 雲根月窟, động Thiên Phước Địa 洞天福地, hang Vân Nguyệt Cốc 雲月谷 có 03 bia ma nhai ngự bút của vua Minh Mạng năm 1837, khắc ghi tên hang, động.
Qua thời gian, một bộ phận văn khắc đã bị bào mòn, không còn đọc được. Những năm gần đây, chính quyền địa phương, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Đà Nẵng đã cùng hợp tác với Trung tâm Văn hóa Phật Giáo Liêu Quán (Huế) cùng các chuyên gia tiến hành triển khai các dự án bảo tồn, nghiên cứu nội dung và giữ gìn tính nguyên gốc của di sản độc đáo này.
Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn là nguồn sử liệu quý giá cung cấp các thông tin đặc biệt từ quá khứ như sau:
– Mối quan hệ giao lưu, tiếp xúc văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam với các quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản từ thế kỷ XVII.
– Chính sách hướng biển và ngoại giao cởi mở, mềm dẻo của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực.
– Lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng người Hoa kiều ở Việt Nam.
– Hệ tưởng tư chính trị Nho giáo của triều Nguyễn và các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam như truyền thống yêu nước, hiếu học, yêu chuộng chữ nghĩa và coi trọng đạo đức con người.
– Lịch sử về giai đoạn phát triển thịnh vượng nhất của thương cảng Hội An và giao lưu hàng hải khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
– Lịch sử về giai đoạn Phật giáo Việt Nam đã hội nhập và mang tính quốc tế cao.
– Một giai đoạn phát triển của hệ thống văn tự ở Việt Nam: sử dụng hài hòa, đan xen giữa chữ Hán và chữ Nôm.
– Lịch sử hình thành và phát triển của Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước, các kỹ thuật điêu khắc đá thủ công đã không còn phổ biến.
– Cho biết diện mạo, vẻ đẹp nguyên thủy của danh thắng Ngũ Hành Sơn – một vùng thắng tích được mệnh danh là “Nam châu đệ nhất danh thắng”.
– Địa danh địa phương, bổ sung cho các tài liệu cổ như Ô châu cận lục và Phủ biên tạp lục cũng như các bộ địa chí của triều Nguyễn.
– Góp phần làm sáng rõ thêm về quan điểm sống, nhân sinh quan của các nhân vật có ảnh hưởng trong lịch sử phong kiến Việt Nam như Trương Quang Đản, Cao Xuân Dục, Bùi Văn Dị, Đào Tấn, Nguyễn Trọng Hợp…
Ma nhai “Phổ Đà sơn linh trung Phật”, ở động Hoa Nghiêm, lập năm 1640. Trong số 82 người tham gia phụng cúng tiền của để xây dựng chùa Bình An, có tên của 07 người Nhật sinh sống tại Nhật Bản dinh 日 本 營 và Tùng Bản dinh 從本營. Những người Nhật này có tên như sau: 平 三 郎 (Heizaburo), 宋 五 郎 (Shogoro), 峻 門 (Shunmon), 阿 知 子 (Achiko), , 七 郎 兵 衛 (Shichiro Bei), 何 奇 采 (Akiu), 平 左 衛 門 (Heiza Emon). Đặc biệt, một số dòng họ thương gia đến đây buôn bán có thể được xem là hạng đại thương gia, có tiếng tăm và quyền lực. Số lượng người Nhật được nhắc tên trong tấm bia ma nhai chiếm 18,2%. Trong văn khắc này cũng có nhắc đến 03 người Trung Hoa: 葉聖公 (Diệp Kiên Công), 呂 宗 吳 (Lã Tông Ngô) và 梏吾耳 (Cát Ngô Nhĩ) từ nước Đại Minh 大明國.
Điều thú vị là ma nhai này còn cho biết thông tin về cuộc hôn nhân giữa những người phụ nữ bản địa và thương nhân người Nhật tại thương cảng Hội An trong thế kỷ XVII. Đặc biệt là trong gia đình “đa văn hóa” kiểu Nhật (chồng) –Việt (vợ), – những gia đình mà tưởng chừng như quyền thế của người đàn ông rất mạnh mẽ và áp chế, nhưng văn khắc cho thấy vai trò của người phụ nữ được coi trọng, thể hiện ở chỗ họ được giữ nguyên họ tên và đứng tên cùng với các ông chồng ngoại quốc trong văn bia công đức.
Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn rất đa dạng về hình thức, phong cách biểu hiện. Giá trị nghệ thuật còn được thể hiện rõ nét qua các bia ma nhai dạng bia ký niên đại thời chúa Nguyễn, trong số đó có hai bia nổi bật nhất là Ngũ Uẩn Sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc và Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật. Cả hai bia ma nhai này có niên đại vào thế kỉ XVII, sớm nhất trong số các bia hiện còn. Kiểu thức trang trí của nó có sự khác biệt, mang đậm dấu ấn thời Chúa Nguyễn.
Bên cạnh đó, các bia ma nhai này cung cấp những thông tin quý giá về nghệ thuật chạm khắc đá thủ công của làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước. Hiện nay, nhằm nâng cao năng suất và sự đa dạng sản phẩm, những người thợ của làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước đã sử dụng máy móc, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong hầu hết các công đoạn sản xuất vì vậy những kỹ năng thủ công, kinh nghiệm nghề nghiệp truyền thống đã không còn phổ biến.
Có thể nói Ma nhai ở danh thắng Ngũ Hành Sơn có các ý nghĩa và giá trị vượt ra ngoài ranh giới của một quốc gia, là loại hình di sản tư liệu quan trọng đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương và thế giới. Nó đặc trưng cho giao lưu, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa giữa các nước Đông Á, biểu hiện cho tầm nhìn chiến lược biển, chính sách ngoại giao rộng mở, mềm dẻo của Việt Nam từ thời trung đại được kế thừa cho tới ngày hôm nay.
Công tác quản lý di sản này đã được UBND thành phố Đà Nẵng quan tâm từ những năm 1990 với các quyết định quan trọng như: cấm khai thác đá núi (1991), thành lập đội bảo vệ di tích Ngũ Hành Sơn (1992), thành Ban Quản lý di tích Danh thắng Ngũ Hành Sơn (2000), đồng thời cũng ban hành các quy chế quản lý di tích nói chung (năm 2007 và 2020).
Ngoài ra, hiện nay, trên cơ sở phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ nhiệm vụ Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Danh lam thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, UBND thành phố Đà Nẵng đã chỉ đạo các đơn vị chuyên môn tiến hành việc lập quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Danh lam thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, trong đó chú trọng các giải pháp và phương án quản lý, bảo tồn ma nhai Ngũ Hành Sơn mang tính lâu dài, bền vững kể cả phương án phục hồi di sản trong trường hợp bị thời tiết, thiên tai xâm hại.
Trong các năm 2017 và 2019, UBND quận Ngũ Hành Sơn phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao, các tổ chức, cá nhân nghiên cứu khoa học đã tổ chức 02 Tọa đàm khoa học để công bố những kết quả nghiên cứu mới, có giá trị đặc sắc tiêu biểu về ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn với sự tham gia của hơn 150 các nhà khoa học, chuyên gia nghiên cứu về Hán Nôm, văn hóa Phật giáo, lịch sử và quy hoạch, quản lý di sản văn hóa. Trên cơ sở kết quả khảo sát và nghiên cứu, ngành văn hóa thành phố đang có chương trình quảng bá, phát huy giá trị của di sản ma nhai Ngũ Hành Sơn, xứng đáng là một di sản lưu giữ ký ức của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Phan Thị Xuân Mai
(Phòng Di sản Văn hóa)
Nguồn: baotangdanang.vn
Xem thêm: Ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của lâu đài Malbork Ba Lan cổ kính
Có dịp đi du lịch Đà Nẵng, nếu bạn muốn khám phá những điểm du lịch mới của thành phố biển này chỉ trong một buổi thì khu vực suối Lương là một lựa chọn thích hợp. Khu du lịch sinh thái Suối Lương nằm phía Nam hầm đèo Hải Vân, phường Hoà Hiệp Bắc, Liên Chiểu, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 15km về hướng Tây Bắc. Từ trung tâm thành phố, chạy dọc theo đường Điện Biên Phủ, qua ngã ba Huế, đến đường Nguyễn Lương Bằng, tiếp tục chạy thẳng đến gần sát đường dẫn lên đèo Hải Vân, rẽ trái chừng 3 km là bạn đã có mặt tại khu du lịch suối Lương chỉ mất khoảng 15-20 phút đi xe máy.
Trong nhiều cuộc khảo sát và nghiên cứu trước đây, Trung tâm UNESCO Nghiên cứu Văn hóa các Dòng họ Việt Nam, thuộc Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam đã tập hợp được các chuyên gia đa ngành (cũng là thành viên từ các dòng họ Việt Nam) tự nguyện tham gia, đáp ứng các nghiên cứu và ứng dụng công tác theo tiêu chí UNESCO trên các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin truyền thông để tìm ra giải pháp lưu trữ, thống kê về hệ thống di sản vô cùng đồ sộ trong các dòng họ ở Việt Nam và các tiến hành bảo trợ, vinh danh, động viên các dòng họ hướng tới các phát triển hệ thống và bền vững do Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam phát động.
Nguyễn Trãi là nhà văn, nhà thơ lớn, nhà tư tưởng, nhà chính trị quân sự lỗi lạc, anh hùng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, tác gia bách khoa thư Việt Nam thời trung đại. Việc biên soạn mục từ “Nguyễn Trãi” góp phần giúp các nhà biên soạn bộ Bách khoa toàn thư Việt Nam có thêm một kênh tham khảo trong khi biên soạn các mục từ nhân danh (tác giả và nhân vật).