Vào khoảng năm 3100 trước Công nguyên, một nhà nước Ai Cập cổ đại được thành lập. Các vị vua Ai Cập cổ đại, còn được gọi là Pharaoh, sở hữu quyền lực tối cao, họ đã dành nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ để xây dựng những lăng mộ cho riêng mình. Pharaoh tin rằng: "Cuộc sống chỉ là thời gian ngắn ngủi, và sau khi chết mới thực sự được tận hưởng vĩnh viễn".


Theo quan điểm hiện đại, độ khó của việc xây dựng các Kim tự tháp Ai Cập cách đây 5 đến 6 nghìn năm quả thực là rất cao. Nhưng về quy mô xây dựng, thì 110 kim tự tháp lớn nhỏ ở Ai Cập (được phát hiện đến thời điểm này) có tổng quy mô xây dựng chưa bằng Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc.
Người Ai Cập đã tận dụng lợi thế địa hình dọc sống Nile để giảm đáng kể nhân lực và vật lực trong quá trình xây dựng Kim tự tháp. Các phương tiện kênh đào có thể dẫn trực tiếp đến vùng lân cận của địa điểm xây dựng. Đá cự thạch được vận chuyển bằng sông Nile, rồi nâng lên từ việc xếp chồng trên các sườn dốc dài.
Đa số các kim tự tháp xây dựng theo cách này và thời gian hoàn thành lâu nhất kéo dài vài thập kỷ.

Trong khi đó, việc xây dựng Vạn Lý Trường Thành không phải trên địa hình bằng phẳng mà là trên những ngọn núi cao ngất, chiếm hầu hết vùng hiểm trở, với mục đích phòng thủ thành lũy. Tần Thủy Hoàng không phải là người đầu tiên cũng như kết thúc xây dựng công trình này.
Tuy nhiên, ông lại là người mở đường cho công trình phát triển bằng việc nối tường thành hai nước Triệu và Hán sau khi thống nhất Trung Hoa. Các triều đại nhà Hán, nhà Đường, nhà Minh và nhà Thanh tiếp theo, đã tiếp tục gia cố và xây dựng tường thành, tổng thời gian hoàn chỉnh công trình kéo dài 2000 năm.
Người ta ước tính, tổng khối lượng công trình Vạn Lý Trường Thành khoảng 100 triệu tấn, gấp rất nhiều lần so với khối lượng xây Kim tự tháp.
Chỉ có điều, độ khó của việc xây dựng Kim tự tháp và Vạn Lý Trường Thành vẫn không thể so sánh được, do sự sai khác về thời điểm và kỹ thuật xây dựng như đã nêu ở trên.
Nguồn: danviet.vn
Xem thêm: Độc đáo kênh đào Corinth - Công trình tuyệt đỉnh của nhân loại
Thái giám hay hoạn quan là những nam nhân bị khiếm khuyết bộ phận sinh dục (do bẩm sinh hay bị cắt bỏ) được tuyển vào cung để hầu hạ vua chúa, hậu phi và làm những việc tạp dịch hàng ngày. Dù bị xem là hạng nô bộc nhưng lịch sử cho thấy, việc tin dùng hoạn quan và đam mê tửu sắc chính là nguyên nhân làm suy yếu hay sụp đổ nhiều triều đại.
Doméa đơn thuần là một bến neo đỗ tàu (anchoring place) hoặc bến cảng (harbor), đồng thời là nơi lưu trú tạm thời của thủy thủ đoàn (đa số sống và sinh hoạt trên boong tàu mặc dù có đôi khi lên bờ sinh sống) trong khoảng 2-3 tháng để chờ nhận hàng và khởi hành đi Nhật Bản hoặc các cảng Đông Nam Á. Doméa đồng thời là nơi bốc hàng hóa xuất khẩu (tơ lụa, gốm sứ Đàng Ngoài) lên tàu và dỡ hàng hóa nhập khẩu (hương liệu, vải vóc, bạc, đồng.....) xuống ghe thuyền địa phương để đưa lên Kẻ Chợ/Phố Hiến.
Tuyên Vương Nguyễn Phúc Hạo 阮福昊, còn có tên là Hiệu, ông là con thứ 9 của đức Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát và bà Hữu Cung tần Trương Thị Hoàng. Tuyên Vương sinh vào ngày 27 tháng 11 năm Kỷ Mùi (27/12/1739).