Trung tâm khảo cứu và biên soạn
Địa chí Việt Nam
Chào mừng đến với website Trung tâm khảo cứu và biên soạn Địa chí Việt Nam.

Độc đáo kênh đào Corinth - Công trình tuyệt đỉnh của nhân loại

05/09/20241.007

Bên dưới bầu trời xanh của Hy Lạp, những con tàu khổng lồ lững lờ lái qua khoảng không hẹp hai bên của kênh đào Corinth. Con kênh này là một trong những kỳ tích quan trọng nhất được hoàn thành vào cuối thế kỷ 19, thực hiện giấc mơ của con người từ 2.500 năm trước.

Kênh đào Corinth cắt qua eo đất Corinth ở Hy Lạp, nối liền biển Ionian với Aegean và biến bán đảo Peloponnese thành một hòn đảo hoàn chỉnh. Nó cũng tạo ra một một trung tâm hàng hải quốc tế làm thay đổi hoạt động hàng hải ở miền nam châu Âu.

Nhờ có con kênh này, quãng đường mà những chuyến tàu chở hàng phải đi được rút ngắn và giúp chúng tới được những cảng khác một cách nhanh chóng cùng an toàn hơn.

Kênh có tổng chiều dài là 6,4 km và rộng 21,3 mét. Vách đá hai bên con kênh có nơi cao nhất đạt đến 63 mét.

Lịch sử của kênh đào Corinth

Vào năm 602 trước Công nguyên, bạo chúa xứ Corinth có tên là Periander đã quyết định nối Vịnh Corinth với Vịnh Saronic. Mục đích của ông ta là cố gắng mở một con kênh ở eo đất Corinth để tránh việc phải đi vòng quanh Peloponnese và rút ngắn tuyến đường lại.

Tuy vậy, dự án đã bị bỏ hoang sau khi Pythia, nữ tư tế của Đền thờ Apollo và là người truyền tin của thần, tuyên bố rằng một nỗ lực như vậy sẽ gây ra "cơn thịnh nộ của các vị thần". Thay vào đó, Periander làm một con đường kéo tàu thuyền trên bộ, đặt tên là Diolkos (đá mặt đường) từ một phía của eo đất. Nó làm thay đổi ý tưởng ban đầu của vị bạo chúa, đồng thời khiến chi phí của dự án vô cùng tốn kém. Chứng tích của nó vẫn còn tồn tại bên cạnh con kênh đào hiện đại ngày nay.

Khoảng 300 năm sau, Demetrius I Poliorcetes (hay còn biết tới với cái tên “Kẻ Bao Vây”) đã khơi gợi lại mối quan tâm về việc xây dựng một kênh đào. Nhưng sau đó, ông đã rút lui khi những kỹ sư đưa ra lời khuyên sai lầm rằng việc tạo ra một dòng nước sẽ làm ngập các hòn đảo ở Vịnh Saronic, do bề mặt nơi này thấp hơn Vịnh Corinth.

Sau đó, một số hoàng đế La Mã bao gồm Julius Caesar và Caligula cũng được cho là đã cân nhắc về ý tưởng này. Nhưng chỉ tới khi Nero, hoàng đế thứ năm của thành Rome lên ngôi vào năm 54 Công Nguyên, dự án mới thực sự được bắt đầu.

Các nhà sử học nói rằng chính hoàng đế đã khởi công dự án đầy tham vọng này vào năm 67 Công Nguyên, chỉ với một cây cuốc bằng vàng.

Theo các tài liệu lịch sử, Hoàng đế Nero đã bắt đầu xây dựng kênh đào với một nhóm 6.000 nô lệ, chủ yếu là tù nhân chiến tranh Do Thái, đập vỡ khoảng 3.000 mét đá ở phía Vịnh Corinthian. Các công nhân đã đào các rãnh rộng ở cả hai phía và một số người trong số họ được giao nhiệm vụ khoan các trục sâu để hiểu chất lượng của đá.

Quá trình khai quật được diễn ra nhanh chóng, nhưng cuối cùng nó phải dừng lại sau khi Nero trở về Rome để dẹp tan một cuộc nổi loạn và qua đời chỉ một năm sau đó. Cho tới nay, du khách trên thuyền vẫn có thể chiêm ngưỡng một bức phù điêu cổ xưa được khắc vào tảng đá khổng lồ tôn vinh vị hoàng đế.

Sau thời đại của Nero, cuộc thảo luận về kênh đào được đưa ra vào năm 1687, khi người Venice khởi xướng kế hoạch sau cuộc chinh phục Peloponnese của họ. Nhưng kế hoạch đã bị hủy bỏ vì nhiều người cho rằng nó quá khó khăn.

Vào năm 1830, sau sự sụp đổ của Đế chế Ottoman, thống đốc Hy Lạp mới được bổ nhiệm Ioannis Kapodistrias đã lại lần nữa trỗi dậy ý tưởng về kênh đào Corinth. Ông giao dự án cho kỹ sư người Pháp Virle d’Uct. Nhưng dự án đã bị ngưng vì chính phủ mới của Hy Lạp không có khả năng chi trả chi phí xây dựng ước tính là 40 triệu franc vàng.

Do đó, vào năm 1869, chính phủ do Thủ tướng Thrasyvoulos Zaimis đứng đầu đã cho phép doanh nghiệp tư nhân của Áo thuộc sở hữu của Etienne Tyrr - Tổng tư lệnh Áo lúc bấy giờ, khởi công xây dựng kênh đào. Mặc dù công trình đã bắt đầu triển khai vào năm 1882, công ty phải đối mặt với khủng hoảng khi các ngân hàng Pháp từ chối cho vay tiền sau khi công ty xây dựng kênh đào Panama bị phá sản. Điều này dẫn đến việc các công trình xây dựng phải tạm dừng.

Tới năm 1890, một doanh nhân Hy Lạp đã giúp đầu tư 5 triệu franc vào công trình. Cuối cùng, kênh đào Hy Lạp cuối cùng đã được xây dựng và đưa vào hoạt động vào ngày 28 tháng 10 năm 1893, sau khi vượt qua rất nhiều trở ngại và khó khăn.

Kênh đào Corinth đã trải qua trận động đất vào năm 1923, khiến khoảng 40.000 mét khối tường bao quanh kênh bị chìm xuống nước. Các mảnh vỡ tích tụ mất khoảng hai năm để được dọn sạch hoàn toàn, sau đó tàu thuyền mới có thể di chuyển trở lại an toàn. Con kênh cũng trải qua những hư hại nghiêm trọng trong Thế chiến II vì đây là một trong những địa điểm có tầm quan trọng chiến lược.

Theo các tài liệu chiến tranh, năm 1941, quân đội Đức đã cố gắng chiếm cây cầu chính bắc qua kênh khi quân đội Anh và Đức Quốc xã tham chiến trong Trận chiến Hy Lạp. Mặc cho người Anh đã ra sức bảo vệ, cây cầu vẫn bị quân Đức chiếm trong một cuộc tấn công bất ngờ.

Năm 1944, khi các lực lượng Đức rút khỏi Hy Lạp, họ đã sử dụng chất nổ trong các chiến dịch “thiêu đất” để ngăn chặn hoạt động của con kênh và cản trở công việc sửa chữa. Sau một vài năm đóng cửa, con kênh đã được mở lại cho tất cả các phương tiện giao thông qua lại vào tháng 9 năm 1948.

Mặc dù đây vẫn là một tuyến đường hàng hải quan trọng, nhưng chiều rộng của kênh ở mực nước biển là 24,6 mét và ở đáy là 21,3 mét, cùng vách đá thẳng đứng hai bên tạo ra khoảng cách quá hẹp cho những tàu thuyến lớn đi qua. Cũng từ đó, con kênh được mệnh danh là "kênh đào hẹp nhất thế giới".

Trong nỗ lực tiếp nhận các tàu thuyền chuyên trở, du lịch lớn hơn và cũng để thúc đẩy nền kinh tế của đất nước, các nhà chức trách đã đề xuất một dự án mở rộng kênh đào Corinth trong Kế hoạch Chiến lược và Hoạt động 2013-2016.

“Một công trình đầy thử thách”

George Zouglis, Tổng giám đốc của Corinth Canal SA, chia sẻ với trang CNN về việc chia đôi eo đất, “Đây là một công việc cực kỳ phức tạp và đầy thử thách. Không hề nghi ngờ gì, đây là một trong những thành tựu kỹ thuật vĩ đại nhất được áp dụng công nghệ hiện đại của thời bấy giờ”.

Giờ đây, kênh đào Corinth trở thành một trong những địa điểm được tham quan nhiều nhất tại Hy Lạp, theo như ông Zouglis cho biết. Thống kê có tới 12.000 tàu thương mại và du lịch của gần 60 quốc gia đi qua kênh này.

Những du khách không đi tàu thuyền có thể sử dụng cầu đường sắt và đường cao tốc để băng qua kênh, với hai cây cầu nối ở hai đầu cho phép giao thông qua lại thuận lợi. Nhưng dù bạn băng qua Kênh đào Corinth theo cách nào, bạn cũng sẽ có cơ hội ngắm nhìn cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ trước mặt.

Minh Châu (theo CNN, Marine Insight)

Xem thêm: Dấu ấn Dinh Độc Lập qua các biến cố lịch sử

Các bài viết khác

Xem thêm
Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng
Tin tức khác04/03/2024

Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng

Khu dự trữ sinh quyển (DTSQ) châu thổ sông Hồng gồm 2 khu vực: phía Bắc là vùng ven biển cửa sông Hồng (thường gọi là cửa Ba Lạt); phía Nam là vùng ven biển cửa sông Đáy (thường gọi là cửa Đáy), được UNESCO công nhận là Khu DTSQ thế giới vào ngày 2/12/2004.

Hoàng Hoa sứ trình đồ
Tin tức khác08/04/2024

Hoàng Hoa sứ trình đồ

“Hoàng Hoa sứ trình đồ” là tác phẩm quý hiếm và độc đáo, có giá trị nhiều mặt: địa lý, lịch sử, chính trị, ngoại giao, văn hoá, phong tục, nghệ thuật... và là cuốn sách độc đáo hiếm gặp về hành trình đi sứ mà một dòng họ lưu giữ được. Ngày 30/5/2018, tác phẩm được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu ký ức thế giới, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Nguồn: Internet
Lễ Hội05/08/2023

Ý nghĩa lễ tế giao xưa và nay, Nghiên cứu và Phát triển số 2 (79), 2010

Tế Giao là cuộc lễ tế trời đất, có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa cổ đại rồi lan truyền sang một số nước trong khu vực. “Giao” là vùng đất bên ngoài kinh thành, người xưa cử hành lễ tế trời ở Nam Giao vào ngày đông chỉ và tế đất ở Bắc Giao vào ngày hạ chí. (Lý Hồng Phúc (biên tập), Khang Hy tự điển, Hán ngữ đại từ diễn xuất bản xã, Thượng Hải, 2005, tr. 1257). Tế Giao được thực hành theo quan niệm và nghi thức Khổng giáo, trong đó, vua được xem là “thiên tử”, đại diện dân để cúng tế trời đất và cầu xin được ban cho phong điều vũ thuận, quốc thái dân an. Ở Việt Nam, Tế Giao được tiếp thu và thực hành lần đầu tiên dưới thời Lý (1010-1225). Chỉ riêng thời Trần không cử hành lễ Tế Giao, các triều đại quân chủ Việt Nam còn lại đều coi đây là đại lễ và cử hành nghi lễ một cách trọng thế. Cách thức Tế Giao thay đổi ít nhiều theo từng triều đại, khi thì phân tế, khi thì hợp tế cả trời và đất ở Nam Giao. Cuộc lễ phản ánh một cách đầy đủ những quan niệm, tư tưởng, các giá trị văn hóa nghệ thuật đặc trưng của cung đình Việt Nam trong lịch sử.