Trung tâm khảo cứu và biên soạn
Địa chí Việt Nam
Chào mừng đến với website Trung tâm khảo cứu và biên soạn Địa chí Việt Nam.

Dấu ấn Dinh Độc Lập qua các biến cố lịch sử

29/08/202455

Sau khi chiếm xong 6 tỉnh Nam kỳ, năm 1868, chính quyền Pháp bắt đầu cho thiết kế và xây dựng tại trung tâm Sài Gòn một Dinh thự làm nơi ở cho Thống đốc Nam kỳ. Công trình hoàn thành sau 3 năm xây dựng với tên gọi là Dinh Norodom (tên một vị quốc vương Campuchia).

Theo sử liệu, vật tư xây cất phần lớn được chuyển từ Pháp sang. Do chiến tranh Pháp - Ðức (xảy ra năm 1870) nên công trình này kéo dài mãi đến năm 1873 mới xong, riêng việc trang trí dinh phải kéo dài thêm 2 năm nữa.

Lúc bấy giờ đại lộ Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn) còn gọi là đại lộ Norodom vẫn còn bùn lầy, ẩm thấp. Dinh được coi là một công thự đẹp nhất ở Á Ðông. Mặt tiền rộng 80 m, phòng khách có thể chứa đến 800 người. Chung quanh là khu vườn rộng lớn trồng đủ loại cây cỏ. Trước mặt dinh, dưới chân cột cờ đặt một khẩu thần công kiểu cổ càng làm tăng thêm vẻ đẹp oai nghiêm cho công thự.

Từ khi xây xong cho đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ ở (Gouverneur de la Cochinchine) nên còn gọi là Dinh Thống đốc. Từ 1887 đến 1945, nhiều đời toàn quyền Pháp đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc trong suốt thời kỳ xâm lược Ðông Dương. Đây cũng là cơ quan biểu thị cho bộ máy cai trị Pháp trên toàn cõi Ðông Dương.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng chỉ sáu tháng sau, Nhật thất bại trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm Nam bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam.

Sau năm 1954, người Pháp rút khỏi Việt Nam. Nước ta bị chia cắt thành 2 quốc gia, miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, miền Nam là Quốc Gia Việt Nam (sau thành Việt Nam Cộng Hòa). Ngày 7/9/1954 Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện Pháp - tướng Paul Ely và đại diện Quốc gia Việt Nam - Thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống. Ông quyết định đổi tên thành Dinh Độc Lập. Theo thuật phong thủy, dinh được đặt ở vị trí đầu rồng, nên dinh cũng còn được gọi là Phủ đầu rồng.

Ngày 27/2/1962, phe đảo chính đã cử hai viên phi công quân đội Sài Gòn là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái 2 máy bay AD6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của dinh. Do không thể khôi phục, Tổng thống Ngô Ðình Diệm đã cho san bằng và xây dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ - người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.

Công trình mới được khởi công ngày 1/7/1962. Trong thời gian xây dinh mới, gia đình ông Diệm chuyển sang sống tại Dinh Gia Long (nay là Bảo tàng TP HCM). Công trình đang dở dang thì ông Ngô Ðình Diệm bị phe đảo chính giết ngày 2/11/1963. Do vậy, ngày khánh thành dinh 31/10/1966, người chủ tọa buổi lễ là Nguyễn Văn Thiệu - Chủ tịch Uỷ ban lãnh đạo quốc gia.

Là người khởi xướng xây dựng Dinh Ðộc Lập nhưng ông Ngô Đình Diệm không được sống ở đây ngày nào, mà người có thời gian sống lâu nhất là Tổng thống Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu (từ tháng 10/1967 đến 21/4/1975). Cũng từ ngày khánh thành, Dinh Độc Lập trở thành nơi ở và làm việc của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.

Dinh rộng 4.500 m2, diện tích sử dụng 20.000 m2, gồm 3 tầng chính, sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng. Hơn 100 căn phòng của dinh được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm việc của Tổng thống và của Phó tổng thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến...

Dinh cao 26 m, tọa lạc trong khuôn viên rợp bóng cây. Giữa những năm 1960, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và pháo. Mặt tiền dinh được trang trí cách điệu các đốt mành trúc phỏng theo phong cách các bức mành của các ngôi nhà Việt và họa tiết các ngôi chùa cổ tại Việt Nam. Các phòng được trang trí nhiều tác phẩm non sông cẩm tú, tranh sơn mài, tranh sơn dầu.

Khi thiết kế, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa văn hóa cho công trình nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, nghi lễ phương Đông và cá tính của dân tộc, kết hợp hài hoà với nghệ thuật kiến trúc hiện đại.

Toàn thể bình diện của dinh làm thành hình chữ "Cát", có nghĩa là tốt lành, may mắn. Vẻ đẹp kiến trúc của dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình dáng những đốt trúc thanh tao bao xung quanh tầng 2. Trong dinh, tất cả các đường nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng.

Sân trước của dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính 102 m. Màu xanh thảm cỏ tạo ra cảm giác êm dịu, sảng khoái ngay khi bước qua cổng. Chạy dài suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ thả hoa sen và súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, chùa cổ kính của Việt Nam.

Ngày 8/4/1975, máy bay F-5E do phi công Nguyễn Thành Trung lái, xuất phát từ Biên Hòa, đã ném bom dinh gây hư hại không đáng kể. Một trái bom rơi cạnh sân trực thăng trên nóc dinh nhưng chỉ nổ phần đầu cắm xuống làm lún sạt một khoảng nhỏ. Đây là lần thứ hai trong lịch sử Dinh Độc Lập bị đánh bom.

Ngày 21/4/1975, tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu từ chức nhường quyền lãnh đạo cho ông Trần Văn Hương nhưng ông này không ở trong dinh. Bảy ngày sau, ông Dương Văn Minh lên làm tổng thống chỉ ở vỏn vẹn hai ngày.

Ngày 30/4/1975, Dinh Độc Lập là nơi chuyển giao quyền lực của chính quyền VNCH cho chính quyền cách mạng, kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm. Tháng 11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc cũng diễn ra tại đây. 

Theo hồ sơ xếp hạng di tích, Dinh Độc Lập là chứng tích lịch sử đặc biệt quan trọng - nơi diễn ra và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử lớn, trực tiếp tác động đến tiến trình lịch sử nước nhà. Do vị thế đặc biệt của địa điểm này, di tích đã nhiều lần được đầu tư xây dựng, tôn tạo và trở thành công trình xây dựng hoàn mỹ - sản phẩm của sự kết hợp hài hòa giữa công trình kiến trúc với cảnh quan, môi trường của khu vực xung quanh.

Với những ý nghĩa lịch sử trọng đại đó, năm 1976 dinh được Nhà nước đặc cách công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Hiện, Dinh Ðộc Lập là di tích lịch sử nổi tiếng được đông đảo du khách đến tham quan và là nơi hội họp, tiếp khách của các cấp lãnh đạo trung ương cũng như của thành phố.

Trung Sơn

Xem thêm: Đi tìm 5 thành phố vĩ đại biến mất bí ẩn

Các bài viết khác

Xem thêm
Cánh đồng Chum - Di sản văn hóa thế giới trên đất nước Lào
Tin tức khác18/03/2024

Cánh đồng Chum - Di sản văn hóa thế giới trên đất nước Lào

Cánh đồng Chum (Tiếng Lào: Thồng Háy Hín) là một vùng di tích văn hóa, lịch sử gần thị xã Phonsavan, thuộc tỉnh Xiêng Khoảng của Lào. Đây là di sản văn hóa thế giới thứ 3 của Lào được UNESCO (Uỷ ban Di sản Thế giới) công nhận ngày 14/05/2019.

Độc đáo kênh đào Corinth - Công trình tuyệt đỉnh của nhân loại
Tin tức khác05/09/2024

Độc đáo kênh đào Corinth - Công trình tuyệt đỉnh của nhân loại

Bên dưới bầu trời xanh của Hy Lạp, những con tàu khổng lồ lững lờ lái qua khoảng không hẹp hai bên của kênh đào Corinth. Con kênh này là một trong những kỳ tích quan trọng nhất được hoàn thành vào cuối thế kỷ 19, thực hiện giấc mơ của con người từ 2.500 năm trước.

Sự hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/ Tứ phủ và nghi lễ hầu đồng
Lễ Hội22/06/2023

Sự hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/ Tứ phủ và nghi lễ hầu đồng

Tín ngưỡng Tam/ Tứ phủ và nghi lễ hầu đồng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của một bộ phận người dân Việt Nam hiện nay. Ngày 1/12/2016, “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Điều đó cho thấy tín ngưỡng này có một giá trị vô cùng quan trọng. Bởi vậy, nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/ Tứ phủ nhằm phản ánh quá trình hình thành, phát triển của tín ngưỡng; phản ánh đời sống xã hội, nhu cầu tâm linh của con người là việc làm cần thiết. Bài viết tìm hiểu sự hình thành của tín ngưỡng này thông qua nghiên cứu truyền thuyết và tư liệu thành văn cùng lịch sử giao lưu, tiếp biến văn hóa, như một đóng góp vào công việc có tính chất học thuật và thực tiễn này.