
Bagerhat là một thành phố cổ của Bangladesh.Trước đây thành cổ này có tên gọi là Khalifatabad. Cơ sở hạ tầng của thành phố cho thấy kỹ thuật xây dựng từ xa xưa của Bangladesh rất đáng khâm phục. Các nhà thờ, đài tượng niệm được xây dựng bằng gạch là một bằng chứng quan trọng với các nhà nghiên cứu, các nhà lịch sử trong việc tìm hiểu lịch sử văn hóa của thành phố thời Trung cổ.

Thành phố Bagerhat dày đặc thánh đường nằm dọc ven hai bên con đường lớn và rải rác trong bán kính 1 km. Tất cả mang đậm kiến trúc Tughlaq. Đó là sự pha trộn giữa kiến trúc Thổ-Ấn. Đa số các công trình kiến trúc đều có kết cấu chung giống nhau gồm: phần thân các công trình mang phong cách của người Ấn hay còn gọi là phong cách Mughal. Tường được ốp đá sa thạch đỏ láng mịn và chạm khắc hoa văn trang trí. Phần mái vòm bên trên các kiến trúc lại mang phong cách của người Thổ với hình dáng đặc trưng là mái vòm hình oval như một nửa của quả địa cầu màu trắng tinh khôi (mái vòm Mughal thường cao đến 2/3 khối cầu).

Tổng cộng trong thành phố Bagerhat cổ có khoảng 360 nhà thời Hồi giáo, các tòa nhàm công trình công cộng, lăng tẩm...tuy nhiên theo thời gian nhiều di tích đã bị phá hủy và mất hoàn toàn. Nhà thờ hồi giáo Bagerhat hay còn được gọi là thánh đường Bagerhat là nơi duy nhất giữ được khá nguyên vẹn với những không gian bao quanh như nhà ở, đường giao thông, nghĩa trang, ao hồ... Vì lý do đó Nhà thờ đã được Unesco công nhận là Di sản văn hóa vào năm 1985.

Tuy nhiên nhà thờ Bagerhat đã và đang gặp phải nhiều mối đe dọa. Trước hết là mối đe dọa của hàng loạt các hoạt động trái phép đang làm cho nhà thờ xuống cấp nhanh chóng. Bên cạnh đó độ mặn, sự khắc nghiệt của đất và không khí, tác động của biến đổi khí hậu đều ảnh hưởng rất lớn và có khả năng đe dọa sự toàn vẹn của Nhà Thờ
Trước thực trạng này, để bảo vệ nhà Thờ, Ban quản lý nhà thờ đã có những quy định nghiêm ngặt trong công tác bảo tồn, trung tu. Các phần được tu sửa trong nhà thờ đều sử dụng các vật liệu gốc như vôi và vữa. Mặc dù vậy có một số phần trong nhà thờ như mặt lưới cửa sổ, chân tường...đã bị thay đổi trong những cuộc trùng tu trước đó.

Hiện nay Nhà thờ hồi giáo Bangerhat là tài sản được quản lý theo Đạo luật Antiquities năm 1968 (sửa đổi 1976). Ngoài ra, Sở Khảo cổ học bảo vệ tài sản Bangladesh đang trực tiếp quản lý Nhà thờ này. Cục Khảo cổ học đảm bảo rằng các hoạt động không phù hợp có thể ảnh hưởng đến giá trị nổi bật toàn cầu về của nhà thờ như các tòa nhà cao tầng hoặc cơ sở hạ tầng xây mới không thể được xây dựng trong hoặc gần khu vực di sản, và không ai có thể thay đổi kiến trúc hoặc thay đổi nội dung di tích trong phạm vi Di sản thế giới này.

Chính phủ Bangladesh rất ý thức được việc giữ gìn Nhà thời vì vậy việc thực hiện các khuyến nghị trên đã được Chính phủ nêu trong Quy hoạch trình Unesco từ năm 1973. Tuy nhiên những nỗ lực trong việc tìm kiếm nguồn tài chính để giải quyết các vấn đề bảo tồn lại không được như ý, vì vậy Chính phủ Bangladesh đã lập một dự án mới có tên Phát triển các dự án cơ sở hạ tầng cho du lịch tại Bangladesh. Theo đó, nguồn thu từ du lịch sẽ để dùng để bảo tồn di sản, dựa vào nguồn thu này Chính phủ sẽ có những kế hoạch lâu dài cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị nổi bật toàn cầu của di sản.
Nguồn: khoahoc.tv
Xem thêm: Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm
Vượt qua “thời gian chiêm bao” mà tư duy con người còn chìm trong không gian hoang dã với hiện tượng thờ các lực lượng "hồn nhiên" như cây cỏ, đất đá, một khúc của ngã ba sông,... để rồi con người tiến lên xây dựng một tổ chức mang tính xã hội. Trên đường đi đó dần dần con người định hình nhân dạng cho các thần linh mà trong đó một vị thần linh cơ bản đầu tiên là nữ thần. Có thể tin được điều đó, bởi trong buổi hồng hoang, sự phân công lao động sớm nhất là phân công lao động nam - nữ. Nam thì săn bắn/bắt, công việc này bấp bênh, hôm được hôm không, thiếu tính chất thường xuyên để đảm bảo cuộc sống. Còn nữ giới với hái lượm rau củ trong rừng, đó là lương thực cơ bản để nuôi sống gia đình. Mặc nhiên vai trò của nữ trở nên cực kỳ quan trọng, do đó đã dẫn đến một hiện tượng khi nhân dạng hóa thần linh thì vị thần đó tất yếu mang dạng nữ. Khởi đầu, người Việt trông cậy vào của cải được thu lượm từ rừng nên người ta tôn trọng thần rừng, hội các điều kiện lại thì vị thần nhân dạng đầu tiên có thể nghĩ được là bà chúa rừng với nhiều chức năng khác nhau - Trước hết là thần của cải - Trong quá trình tồn tại, người ta hội dần vào bà nhiều chức năng, đầu tiên là bà “mẹ Thiêng liêng" với quyền năng vô bờ bến; một bà “mẹ Thế gian”, bởi người ta coi từ bà mà muôn loài nảy sinh và phát triển. Đồng thời bà là một thần linh đứng đầu bách thần nên bà còn mang tư cách là một đấng “vô cùng” - người Việt đã dần hội tất cả những gì linh thiêng liên quan vào chính bà Đông Cuông - một bà mẹ vũ trụ khởi nguyên của người Việt.
“Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” là một thư tịch chính thống khẳng định cương vực quốc gia, tỏ rõ ý thức độc lập của dân tộc Việt Nam tự cường đầu thế kỷ XIX.
Trong lịch sử Việt Nam, đối với các triều đại trước thời Nguyễn, mà tiêu biểu là dưới thời Lê, sự thay đổi trang phục hầu như chỉ diễn ra ở tầng lớp hoàng thân quốc thích, quý tộc, quan lại, chủ yếu là trang phục dành cho đời sống hoàng gia và việc thực hành các nghi lễ tế tự trong cung đình (tức Lễ phục và Tế phục).