Trung tâm khảo cứu và biên soạn
Địa chí Việt Nam
Chào mừng đến với website Trung tâm khảo cứu và biên soạn Địa chí Việt Nam.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết dân tộc

17/06/2023410

Ngày 6/12/2012, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ đã được Ủy ban Liên chính phủ theo Công ước năm 2003 của Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Không phải ngẫu nhiên một tổ chức có uy tín của Liên hiệp quốc lại thừa nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di sản văn hóa thế giới. Không những thế, UNESCO còn khuyến cáo các dân tộc khác hãy noi gương Việt Nam, biết nhớ tới cội nguồn và biết ơn tổ tiên của mình.

Gần 10 năm sau ngày UNESCO vinh danh Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di sản văn hóa thế giới, chúng ta càng nhận ra sức mạnh của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đang được phát huy trong hiện tại và tương lai. Đó chính là sức mạnh cội nguồn, quy tụ được sự đoàn kết các thế hệ người dân Việt Nam sinh sống ở mọi miền đất nước, kể cả kiều bào ta ở nước ngoài tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bất kỳ dân tộc nào trên thế giới đều có nguồn cội của mình nhưng người Việt Nam có sự khác biệt ở chỗ, cùng thờ chung một ông Tổ - Vua Hùng. Có thể nói, hiếm có nơi nào lại có được hình thức thờ Tổ độc đáo như vậy. Nó đã trở thành một hiện tượng xã hội mang bản sắc riêng của Việt Nam; góp phần tạo ra hệ giá trị tinh thần và bản lĩnh văn hóa Việt Nam.

Truyền thống thờ Tổ tiên bắt nguồn từ việc biết ơn đối với cha mẹ, ông bà, nên trong mỗi gia đình đều có bàn thờ gia tiên, đến thờ Tổ của dòng họ, thờ thành hoàng làng ở từng làng xã và đến cấp độ cao hơn là thờ chung một ông Tổ - Vua Hùng.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương xuất phát từ mạch nguồn dân tộc, từ sự tôn vinh những nhân vật lịch sử có công dựng nước đã tạo lập ra một quốc gia, dân tộc. Nên tất cả những người dân đất Việt đều có ý thức tôn thờ các vua Hùng là vị vua Thủy Tổ, là tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, vượt qua thời gian, vượt lên các thể chế chính trị, Hùng Vương luôn được cả người dân, lẫn các giai cấp cầm quyền tôn thờ và xây dựng các thiết chế văn hóa, tín ngưỡng để thờ tự. Qua Ngọc Phả Hùng Vương soạn vào thời triều đại nhà Lê đời Hồng Đức nguyên niên (1470) được biết, từ đời nhà Đinh, Lê, Lý, Trần và Hậu Lê việc thờ cúng Hùng Vương đã được tổ chức ở làng Cổ Tích, xã Hy Cương. Nhân dân các vùng của đất nước đều đến lễ để tưởng nhớ các đấng Thánh Tổ ngày xưa.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có sức sống mãnh liệt, trường tồn với thời gian còn bởi lẽ người dân tôn thờ Hùng Vương vì ở sự linh thiêng và đức tin. Đó chính là hai yếu tố cơ bản tạo thành sợi dây cố kết cộng đồng. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, trong tâm thức của nhân dân ta vua Hùng là vị vua Thủy Tổ dựng nước, là tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Do đó dân tôn vinh Vua Hùng là Thánh Tổ và dựng lên các ngôi đền trên núi Nghĩa Lĩnh để thờ tự từ bao đời nay. Thái độ tôn kính Hùng Vương với tư cách là Thủy Tổ của dân tộc, theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của các thế hệ người dân Việt Nam, khiến cho Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ngày càng linh thiêng và sức lan tỏa sâu rộng ra mọi miền đất nước, kể cả đối với kiều bào ta đang sinh sống ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương còn thể hiện ở đức tin trong lòng nhân dân. Với niềm tin về một sức mạnh thiêng liêng, tiềm ẩn ở một sức mạnh siêu nhiên, nên trong dân gian thường quan niệm Đức Thánh Hùng Vương có thể giúp cho họ vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống trước thiên tai, địch họa và mọi cầu mong sẽ được thực hiện. Với đức tin vào sự linh thiêng huyền diệu đối với Tổ Hùng Vương, nên Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được cả dân tộc tôn thờ. Có thể nói, trong hệ thống các tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, khó có tín ngưỡng nào có được tầm ảnh hưởng như vậy.

Mặt khác, với quan niệm vua Hùng là ông Tổ chung, nên với tấm lòng thành kính và tri ân tổ tiên, đã có sự chung sức chung lòng của nhiều địa phương và các tổ chức, cá nhân trong cả nước đóng góp công sức, tiền của cho việc tu bổ, tôn tạo Đền Hùng. Theo một số tài liệu còn ghi chép lại, vào những năm 1918 đến 1922 có 18 tỉnh, thành phố ở Bắc Kỳ và nhiều tổ chức, cá nhân đóng góp tiền của để trùng tu các đền. Qua đó cho thấy, từ rất sớm nhân dân ta đã có ý thức hướng về cội nguồn, đóng góp

công đức để xây dựng và tu bổ, tôn tạo nơi thờ tự tổ tiên của dân tộc. Ngày nay, Đảng và Nhà nước càng quan tâm hơn tới nơi thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, nên tại Đền Hùng đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo các ngôi đền thờ tự các bậc tiền nhân có công dựng nước ngày càng khang trang bề thế, cảnh quan môi trường sạch đẹp và hấp dẫn, tạo thuận lợi cho đồng bào về thăm viếng tổ tiên.

Về Đền Hùng là về nơi trung tâm của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, mỗi người dân Việt Nam được về nơi cội nguồn dân tộc, về với hồn đất nước, là một hành động thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và thể hiện lòng biết ơn công lao dựng nước của các vua Hùng.

Đến với Đền Hùng, mỗi người dân Việt Nam còn hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của hai chữ “đồng bào”, được cùng sinh ra trong một bọc của mẹ Âu Cơ. Từ đó mà có sức mạnh của ý chí cộng đồng, của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Suy rộng ra, sự gắn kết cộng đồng xuất phát từ nguồn cội, do đó, là người Việt Nam dù ở đâu, trong Nam, ngoài Bắc, miền ngược hay miền xuôi, người kinh hay người dân tộc thiểu số đều là con một nhà trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Như vậy, có thể thấy giá trị của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương chính là sức mạnh của tinh thần cố kết cộng đồng, truyền thống đoàn kết dân tộc.

Trong thời đại ngày nay, đất nước ta đang trên đà hội nhập và phát triển, thời cơ thuận lợi có nhiều, nhưng khó khăn, thách thức không hề nhỏ. Để đưa đất nước đi lên sánh vai với các cường quốc năm châu, chúng ta cần có sự đồng tâm hiệp lực của đồng bào cả nước, kể cả những người con đất Việt đang sinh sống ở nước ngoài. Nếu biết phát huy sức mạnh cội nguồn - sức mạnh của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, chúng ta sẽ tập hợp được sự đoàn kết đối với tất cả người dân đất Việt, cùng chung sức, chung lòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là thực hiện được lời dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đồng bào cả nước:

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết !

Thành công, thành công, đại thành công !”.

Nguyễn Tiến Khôi - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Phú Thọ

Nguồn: https://phutho.gov.vn/vi/tin-nguong-tho-cung-hung-vuong-suc-manh-cua-tinh-dai-doan-ket-dan-toc

Xem thêm: Giới thiệu chung về vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng

Các bài viết khác

Xem thêm
Di tích lịch sử Nara cổ đại
Tin tức khác14/07/2024

Di tích lịch sử Nara cổ đại

Nara là thủ đô của Nhật Bản từ năm 710 đến năm 784. Di tích Lịch sử của Nara cổ bao gồm 8 công trình ở cố đô Nara, tỉnh Nara, Nhật Bản. Trong số này có năm công trình là chùa Phật giáo, một đền thờ Thần đạo (Shintō), một cung điện và một khu rừng nguyên sinh. Quần thể bao gồm 26 tòa nhà được Chính phú Nhật Bản chỉ định như là Quốc bảo của Nhật Bản và 53 tòa nhà được chỉ định là Tài sản Văn hóa Quan trọng của Nhật Bản.

Bạch Long Vĩ - Hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc
Tin tức khác05/01/2024

Bạch Long Vĩ - Hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc

Nếu như Đồ Sơn, Cát Bà, Vịnh Lan Hạ từ lâu đã trở thành những địa chỉ nổi tiếng trên bản đồ du lịch Việt Nam, thân thuộc với khách du lịch trong nước và quốc tế, thì Bạch Long Vĩ, đến nay, vẫn là một hòn đảo hoang sơ với rất nhiều những điều thú vị chưa được khám phá. Với vị trí địa lý quan trọng, là “phên dậu tiền tiêu” biên giới trên vùng biển vịnh Bắc Bộ của quốc gia, Bạch Long Vĩ không đơn thuần là một điểm tham quan du lịch. Bạch Long Vĩ không phải là nơi dễ đến, không phải cứ khoác ba lô lên đường là được tham quan một điểm đến mới lạ. Hành trình từ đất liền ra đảo với 6 -7 giờ lênh đênh trên biển, đối mặt với những cơn say sóng dữ dội, đối mặt với những khắc nghiệt từ thời tiết, từ thiên nhiên vẫn luôn là thử thách mà không phải ai cũng dũng cảm đối mặt. Nên ngay cả với những người con đất Cảng, Bạch Long Vĩ vẫn ẩn chứa những điều bí ẩn và kỳ diệu, thôi thúc sự khám phá, chinh phục của những người yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc và đau đáu với mảnh đất tiền tiêu của Tổ quốc mình.

Chùa Mèo Lang Chánh – điểm đến linh thiêng và sự tích “Miêu thần cứu Chúa”
Tin tức khác10/05/2024

Chùa Mèo Lang Chánh – điểm đến linh thiêng và sự tích “Miêu thần cứu Chúa”

Chùa Mèo Lang Chánh là một ngôi chùa cổ nằm tại làng Chiềng Ban, xã Quang Hiến, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Nay thuộc khu phố Chiềng Ban 1 thị trấn Lang Chánh sau sáp nhập đơn vị hành chính toàn bộ xã Quang Hiến vào thị trấn. Ngôi chùa này có một lịch sử lâu đời và nhiều câu chuyện tương truyền đầy ý nghĩa về sự kết hợp giữa tôn giáo, văn hóa và lịch sử của người dân trong vùng.