Tập thể Phòng Nghiên cứu văn bản Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam trong nhiều năm qua đã tổ chức thực hiện đề tài Địa chí Thăng Long - Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm. Đây là công trình dịch chú, nhằm cung cấp cho người nghiên cứu cũng như độc giả những tư liệu gốc về địa chí Hà Nội xưa.
Trong bài viết này, chúng tôi xin thay mặt nhóm đề tài giới thiệu nguồn tài liệu và giá trị của nó đối với việc nghiên cứu Thăng Long - Hà Nội.
Ở các thư viện lớn tại Hà Nội: Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc gia, Viện Sử học hiện còn 42 tài liệu và 2 tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ Trung ương I Hà Nội, tổng cộng là 44 tài liệu.
Xét về hình thức biên soạn, có thể chia các tài liệu này làm 2 loại là quốc chí và địa phương chí.
Loại này có số lượng tương đối nhiều, gồm 27 quyển, như: Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Hoàng Việt địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Việt địa dư toàn biên, Đồng Khánh địa dư chí, Các tỉnh chí v.v...
a/ Địa chí viết về một miền trong đó có Hà Nội: Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc Thành địa dư chí lục, Bắc Kỳ các tỉnh đạo phủ huyện, Bắc Kỳ giang sơn cổ tích v.v... gồm 8 quyển.
b/ Địa chí viết riêng về Hà Nội: Hà Nội địa dư, Hà Nội địa bạ, Thăng Long cổ tích khảo, Hoàn Long huyện chí, Đông Ngạc xã chí v.v..., gồm 7 quyển.
Xét về nội dung, cũng có thể chia chúng thành 2 loại:
1. Loại ghi chép tổng hợp: là những sách có đủ nội dung của sách địa chí, bao gồm: cương vực, diên cách, thành trì, núi sông, nhân vật, phong tục, sản vật v.v... như: Đại Nam nhất thống chí, Hà Nội địa dư, Hà Nội sơn xuyên phong vực, Hoàn Long huyện chí v.v... Cùng loại này nhưng có cả bảng kê danh sách huyện xã thôn như: Bắc Thành địa dư chí lục, Đại Việt địa dư toàn biên, Đồng Khánh địa dư chí v.v...
2. Loại kê riêng danh sách các đơn vị hành chính xã thôn: loại này ít, chỉ có 3 tài liệu là: Các trấn tổng xã danh bị lãm, Hà Nội địa bạ, Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX (1890).
Từ khi Lý Thái Tổ xuống chiếu dời đô thì Thăng Long trở thành kinh đô của cả nước, phủ ứng Thiên là đất phụ quách kinh thành. Đến đời Lê, Quang Thuận năm thứ 10 (1469) đổi tên phủ ứng Thiên thành phủ Phụng Thiên, lĩnh 2 huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương (huyện Vĩnh Xương sau đổi là Thọ Xương, huyện Quảng Đức năm Gia Long 4 (1805) đổi tên là Vĩnh Thuận). Đời Tây Sơn gọi là Bắc Thành. Năm Gia Long 4 (1805) đổi tên phủ Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức, lĩnh 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Như vậy trong nhiều thế kỷ, địa dư của Thăng Long xưa vẫn chỉ bao gồm phần đất đai thuộc 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận.
Năm Minh Mệnh 12 (1831) cải cách hành chính cả nước, bỏ trấn chia tỉnh hạt thì tỉnh Hà Nội cũng ra đời. Đến thời gian này, phạm vi Hà Nội mới bắt đầu được mở rộng và liên tục thay đổi.
Chúng tôi đã dùng 7 tài liệu có ghi số lượng đơn vị hành chính và tên từng phủ huyện xã thôn của tỉnh Hà Nội như Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc Thành dư địa chí lục, Đại Việt địa dư toàn biên, Hà Nội địa bạ, Đồng Khánh địa dư chí và Danh sách các phủ huyện tổng của tỉnh Hà Nội năm 1888, Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX (1890) để tìm hiểu sự thay đổi đó.
Có thể lấy cuộc cải cách hành chính năm Minh Mệnh 12 (1831) làm mốc để chia thành 2 giai đoạn chính.
- Giai đoạn 1: từ cải cách hành chính năm 1831 trở về trước
Sử sách hiện còn chỉ cho chúng ta biết kinh kỳ thời Lý - Trần gồm 2 huyện chia thành 61 phường(1), đến đời Lê chia thành 36 phố phường(2) mà không có một tài liệu nào ghi cụ thể danh sách đó(3). Căn cứ vào tài liệu ghi địa danh sớm nhất của đời Nguyễn hiện còn là sách Các trấn tổng xã danh bị lãm, chúng ta biết đến đời Gia Long, đơn vị hành chính đã đổi thành tổng, phường, xã, thôn. Nhưng không có thông tin nào cho biết thời gian cụ thể xảy ra việc thay đổi đó.
Có 3 tài liệu: Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc Thành địa dư chí lục, Đại Việt địa dư toàn biên đều ghi phủ Hoài Đức đời Gia Long có 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, cộng 13 tổng, 250 xã thôn phường.
- Giai đoạn 2: từ năm 1831 về sau. Giai đoạn này việc thay đổi địa dư diễn ra nhiều và liên tục, nhất là sau khi thành phố Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp năm 1888. Có 3 lần thay đổi:
+ Từ năm 1831 đến 1887 Đồng Khánh thứ 2
Có 2 tài liệu Hà Nội địa bạ và Đồng Khánh địa dư chí lục kê tỉnh Hà Nội lúc này gồm 4 phủ là Hoài Đức (3 huyện: Từ Liêm, Thọ Xương, Vĩnh Thuận), Thường Tín (3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên), ứng Hòa (4 huyện: Sơn Minh, Hoài An, Chương Đức, Thanh Oai) và Lý Nhân (5 huyện: Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục, Nam Xương). Tổng cộng 15 huyện, 127 tổng, 1104 xã thôn phường.
Thời gian này tỉnh Hà Nội có phạm vi rộng nhất, gồm toàn bộ đất đai khu vực nội thành, huyện Từ Liêm và 2 tỉnh Hà Đông, Hà Nam ngày nay.
+ Năm 1888 Đồng Khánh 3
Có 1 tài liệu: Danh sách các phủ huyện tổng làng của tỉnh Hà Nội năm 1888.
Thời gian này tỉnh Hà Nội vẫn gồm 4 phủ: Lý Nhân (5 huyện: Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục, Nam Xương), ứng Hòa (2 huyện: Sơn Lãng, Thanh Oai), Hoài Đức (4 huyện: Từ Liêm, Đan Phượng, Thọ Xương, Vĩnh Thuận) và Thường Tín (3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên). Tổng cộng 14 huyện, 113 tổng và 992 xã thôn.
So với địa dư từ 1831 đến 1887, năm này tỉnh Hà Nội có thêm huyện Đan Phượng nhưng bớt 2 huyện Hoài An và Chương Đức.
+ Năm 1889-1890 đời Thành Thái
Có 1 tài liệu: Danh mục làng xã Hà Nội năm 1890. Lúc này tỉnh Hà Nội không còn cấp phủ và chỉ còn 11 huyện là Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên, Từ Liêm, Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Sơn Lãng, Thanh Oai, Kim Bảng, Duy Tiên và Đan Phượng. Tổng cộng 95 tổng, 750 xã thôn.
Thời gian này, địa dư tỉnh Hà Nội đã thu hẹp đáng kể, từ chỗ mở rộng 15 huyện, nay chỉ còn 11 huyện: năm 1888 cắt 2 huyện Hoài An, Chương Đức; 3 huyện Thanh Liêm, Bình Lục và Nam Xương năm 1890 chuyển về thành lập tỉnh Hà Nam.
Năm 1888 thành phố Hà Nội thành nhượng địa của Pháp, vùng ngoại thành nhập với huyện Vĩnh Thuận đổi tên là huyện Hoàn Long(4), tỉnh lỵ Hà Nội chuyển về xứ Cầu Đơ, gọi là tỉnh Cầu Đơ, sau đó đổi tên thành tỉnh Hà Đông. Tài liệu mang tên tỉnh Hà Nội muộn nhất là Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX (năm 1890) nên chúng tôi chỉ tìm hiểu địa dư Hà Nội đến năm 1890.
Có thể liệt kê các phủ huyện tỉnh Hà Nội thời Nguyễn như sau:
Phủ
|
Huyện
|
1802-1831
|
1831-1887
|
1888
|
1889-1890
|
Hoài Đức
|
Vĩnh Thuận
Thọ Xương Từ Liêm Đan Phượng |
+
+ |
+
+ + |
+
+ + + |
+
+ + + |
Thường Tín
|
Thượng Phúc
Thanh Trì Phú Xuyên |
|
+
+ + |
+
+ + |
+
+ + |
Ứng Hòa
|
Sơn Minh
Hoài An Chương Đức Thanh Oai |
|
+
+ + + |
+
+ |
+
+ |
Lý Nhân
|
Kim Bảng
Duy Tiên Thanh Liêm Bình Lục Nam Xương |
|
+
+ + + + |
+
+ + + + |
+
+ |
Cộng
|
|
2
|
15
|
14
|
11
|
Dùng các tài liệu có kê tên phường xã thôn như Các trấn tổng xã danh bị lãm, Bắc thành địa dư chí lục, Hà Nội địa bạ, Đồng Khánh địa dư chí lục, Danh mục làng xã Hà Nội năm 1890; lập một bảng đối chiếu, chúng ta sẽ tìm ra được hệ thống tên riêng những phường xã thôn của Hà Nội đã thay đổi từ đời Gia Long, qua Minh Mệnh, Tự Đức, Đồng Khánh đến Thành Thái. Sự thay đổi này rất nhiều và liên tục, đặc biệt trong khoảng từ đời Minh Mệnh sang đời Tự Đức.
Sự thay đổi này có nhiều lý do, có khi vì việc tách nhập đơn vị hành chính, có khi vì lý do tu từ, có khi vì kiêng tránh từ tôn kính, nhưng nhiều nhất và quan trọng nhất là do lệ kiêng húy.
Trong khi chưa thể lập được danh sách tất cả các xã thôn phường thay đổi, chúng tôi tạm lập một bảng tên địa danh thay đổi vì kiêng húy như sau:
Stt | Chữ huý | Gia Long | Minh Mệnh | Thiệu Trị | Tự Đức | Kiến Phúc | Đồng Khánh | Thành Thái |
1 | Cảo | Nhật Cảo | Nhật Tảo | - | - | - | - | - |
2 | - | Minh Cảo | Minh Tảo | - | - | - | - | - |
3 | - | Lai Cảo | Lai Tảo | - | - | - | - | - |
4 | - | Cảo Khê | Tảo Khê | - | - | - | - | - |
5 | - | Cảo Dương | Tảo Dương | - | - | - | - | - |
6 | - | Nhật Cảo | Nhật Tảo | - | - | - | - | Nhật Tựu |
7 | - | Ninh Cảo | Ninh Tảo | - | - | - | - | - |
8 | Đam | Tây Đam | Tây Tựu | - | - | - | - | - |
9 | - | Phúc Đam | Phúc Lý | - | - | - | - | - |
10 | Hoa | Hoa Ngạc | - | Đường Ngạc | - | - | - | Đường |
11 | - | Xuân Hoa | - | Xuân Yên | - | - | - | - |
12 | - | Hoa Ngư | - | Nam Ngư | - | - | - | - |
13 | - | Yên Hoa | - | Yên Phụ | - | - | - | - |
14 | - | Bạch Hoa | - | Bạch Liên | - | - | - | - |
15 | - | Hoa Kinh | - | Minh Kinh | - | - | - | Chính Kinh |
16 | - | Hoa Nhị | - | Phương Nhị | - | - | - | - |
17 | - | Hoa Âm | - | Thanh Âm | - | - | - | - |
18 | - | Hoa Nao | - | Bạch Nao | - | - | - | - |
19 | - | Tam Hoa | - | Tam Đăng | - | - | - | - |
20 | - | Hoàng Hoa | - | Hoàng Mộc | - | - | - | - |
21 | - | Ngô Hoa | - | Ngô Đồng | - | - | - | - |
22 | - | Hoa Xà | - | Hương Xà | - | - | - | Phương Xà |
23 | - | Hoa Phong | - | Khả Phong | - | - | - | - |
24 | - | Liên Hoa | - | Liên Đích | - | - | - | - |
25 | - | Phú Hoa | - | Phú Túc | - | - | - | - |
26 | - | Hoa Sam | - | Thanh Sam | - | - | - | - |
27 | - | Hoa Đình | - | Phượng Đình | - | - | - | - |
28 | - | Nam Hoa | - | Nam Phố | - | - | - | - |
29 | - | Kim Hoa | - | Kim Liên | - | - | - | - |
30 | - | Hoa Viên | - | Hương Viên | - | - | - | Phượng Viên |
31 | - | Bạch Hoa | - | Bạch Nao | - | - | - | - |
32 | - | Đích Hoa | - | Liên Đích | - | - | - | - |
33 | Tông | Tông Tranh | - | Hoà Tranh | - | - | - | - |
34 | - | Tông Chất | - | Đa Chất | - | - | - | - |
35 | Tuyền | Du Tuyền | - | Du Tiền | - | - | - | - |
36 | - | Thạch Tuyền | - | Thạch Bích | - | - | - | - |
37 | - | Thanh Tuyền | - | Thanh Khê | - | - | - | - |
38 | - | Tuyền Cam | - | Thuỷ Cam | - | - | - | - |
39 | Triền | Thao Triền | - | Thao Chính | - | - | - | - |
Tất cả có 73 xã phường, phân bố ở các đời như sau:
- Minh Mệnh có 9 chữ: Cảo: 7, Đam: 2
- Thiệu Trị 29 chữ: Hoa: 23, Tông: 2, Tuyền: 4, Triền: 4
- Tự Đức 7 chữ: Hồng: 4, Hằng: 1, Thường: 1, Chương: 1
- Đồng Khánh 1 chữ: Đường
- Thành Thái 23 chữ: Hương: 11, Đường: 10, Chiêu: 1, Biện: 1
Từ bảng kê này, chúng tôi có nhận xét:
Hương là chữ húy đời Kiến Phúc, nhưng trong văn bản sách Đồng Khánh địa dư chí lục (soạn đời Đồng Khánh) tất cả các chữ “Hương” vẫn còn hiện diện, đến đời Thành Thái (sách Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX) mới thấy đổi tên mới.
Đường, Biện là chữ húy đời Đồng Khánh, nhưng cũng sách trên vẫn thấy ghi tên cũ, chỉ đến đời Thành Thái mới đổi hàng loạt (trừ 1 chữ “Đường” tên xã Đường Bạt đổi thành Thường Bạt, đến đời Thành Thái lại đổi thành Thiệu Bạt)(5).
Ngoài việc đổi tên do kiêng húy, 2 chữ Thiên và Nguyễn thuộc diện từ tôn kính nên đến đời Tự Đức đều phải đổi. Có 4 trường hợp tên tổng xã có chữ “Thiên”, như Thiên Mỗ đổi thành Đại Mỗ, Thiên Kiện thành Đại Kiện và Thiên Mạc thành Hòa Mạc; 3 trường hợp tên tổng xã có chữ “Nguyễn” phải đổi, như Nguyễn Xá thành Tiên Xá và Nam Xá.
Những tư liệu này rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu diên cách địa danh đến từng xã thôn phường phố của Hà Nội từ đầu đến cuối thời Nguyễn.
Trong số 14 tác phẩm mà chúng tôi tuyển chọn, có 5 tài liệu kê được lớp địa danh đến phường xã thôn:
- Các trấn tổng xã danh bị lãm (đời Gia Long)
- Bắc Thành địa dư chí lục (đời Minh Mệnh)
- Hà Nội địa bạ (đời Tự Đức)
- Đồng Khánh địa dư chí lục (đời Đồng Khánh)
- Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ XIX (đời Thành Thái).
Hai tài liệu đầu phản ánh lớp địa danh đời Gia Long-Minh Mệnh về trước, không có nhiều thay đổi; 2 tài liệu tiếp theo ghi địa danh đời Thiệu Trị có nhiều thay đổi, đến Tự Đức - Đồng Khánh không thay đổi; tài liệu cuối cùng là lớp địa danh đời Thành Thái, có nhiều thay đổi.
Với số tài liệu khá đủ và tương đối liên tục như vậy, người nghiên cứu có thể lập một bảng tra hệ thống địa danh của Hà Nội từ đời Gia Long cho đến đời Thành Thái. Qua hệ thống này, có thể nhận ra sự đổi tên của từng phường, xã, thôn, kể cả tên đổi vì kiêng huý và sự cắt chuyển đơn vị tổng, xã thôn phường từ nơi này sang nơi kia v.v... Ví dụ Hoa Kinh là tên từ đời Minh Mệnh về trước của thôn thuộc tổng Khương Đình huyện Thanh Trì, đời Thiệu Trị kiêng huý chữ Hoa đổi là Minh Kinh, đến đời Thành Thái đổi là Chính Kinh, thường gọi là Kẻ Mọc, nay thuộc quận Thanh Xuân v.v...
Đây là nguồn tư liệu hết sức quý giá và cần thiết để nghiên cứu diên cách địa danh đến từng phường xã thôn của Hà Nội trong thời gian gần trọn thế kỷ XIX.
Sách Thăng Long cổ tích khảo là tài liệu duy nhất cung cấp cho chúng ta tên và vị trí của 17 trong số 21 cửa ô đời Lê.
Cũng chính sách này ghi được tên một số phường của Thăng Long thời Lê và tên các phố của thành Hà Nội cuối thời Nguyễn. Đặc biệt quý là danh sách tên Nôm của các phố phường và nghề nghiệp của dân sinh sống ở đó.
Năm 1888 Hà Nội trở thành nhượng địa, thực dân Pháp xây dựng mới và quy hoạch thành phố theo kiểu phương Tây thì sách Nam quốc địa dư chí lược và Nam quốc địa dư ghi được khi đó thành phố Hà Nội chia làm 8 hộ (Hà Thành bát hộ), mặt phố chia làm 4 hạng, gồm 55 phố.
Sách Hà Nội địa dư lại cung cấp cho chúng ta thêm tư liệu tìm hiểu về việc người Hà Nội xưa đặt tên phố như: "Có nơi đặt theo tên điện như Huy Văn, Giảng Võ; có nơi đặt theo tên cổng thành như Trường An, Bảo Khánh; có nơi đặt theo tên đàn như Xã Tắc, Phong Vân; có nơi đặt theo tên cơ quan nhà nước như Khâm Thiên, Công Bộ, Ngự Sử; có nơi lại đặt theo tên đơn vị quân đội như Thị Vật, Tiền Tiệp v.v..."
Những tư liệu thuộc loại này thật hiếm, thật quý, thật hữu ích đối với việc nghiên cứu phố phường Hà Nội xưa.
Sách Bắc Thành địa dư chí lục, Đại Việt địa dư toàn biên, Đại Nam nhất thống chí, Thăng Long cổ tích khảo v.v... có những thông tin rất quý về Hoàng Thành mà không một loại thư tịch nào ghi được.
Đại Việt địa dư toàn biên viết: “Căn cứ vào đồ bản thành Thăng Long đời Hồng Đức, thì thành này hình như thước thợ mộc. Ba mặt đông, nam, bắc vuông vắn, mặt tây và nam dài bằng một nửa. Cửa đông bắt đầu từ thôn Đức Môn (trước là thôn Đông Môn) tổng Đồng Xuân, theo hướng bắc đến sông Tô Lịch, đi bờ bên tả qua cửa bắc về phía tây đối với phường Nhật Chiêu, theo về phía nam là cửa Bảo Khánh, theo hướng nam đến phía trước bên hữu Văn Miếu, lại đến phía sau qua sang bên tả là cửa Nam, đi thẳng về phía đông. Đấy là dấu cũ thành Thăng Long, ở giữa là cung thành, trong cửa cung thành là Đoan Môn. Trong Đoan Môn là điện Thị Triều, trong điện Thị Triều là điện Kính Thiên. Bên hữu điện Kính Thiên là điện Chí Kính, bên tả là điện Văn Thọ. Bên hữu Đoan Môn là Tây Trường An, bên tả là Đông Trường An. Trong có suối Ngọc. Ngoài cung thành là Hoàng thành. Về bên đông, phía trước là Thái Miếu, phía sau là Đông Cung. Bên tây qua núi Khán Sơn là điện Giảng Võ. Lại về phía tây là đền thờ Linh Lang. Trường thi Hội đều ở đấy. Hoàng thành, cung thành đều xây bằng gạch. Nền điện Kính Thiên ở chỗ đất bằng có gò đất nổi lên cao, bằng phẳng vuông vắn. Sách địa lý nói rằng “núi Nùng ở chính giữa” tức là nơi này. Đằng sau lại mọc ra núi Tam Sơn, bên hữu lại mọc ra núi Khán Sơn”.
Sách Hà Nội địa dư ghi: “Thành mở 4 cổng: cổng phía đông là Tường Phù, phía tây là Diệu Đức, phía nam là Đại Hưng, phía bắc là Quảng Phúc, lại đắp thành đất bao bọc ở xung quanh. Năm Thiên Thành 2 (1029) đắp một lớp thành bao bọc ở xung quanh gọi là Phượng Thành. Đầu thời Trần vẫn giữ theo như thế và định ra hai bạn phường Tả và Hữu của Kinh thành ...Nội thành gọi là thành Long Phượng. Đầu niên hiệu Quang Thuận triều Lê mới cho xây thành Đại La, lại nhân theo quy chế thời Lý, Trần, mở mang Phượng Thành, xây rộng ra 8 dặm”.
Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: "Đời Lý gọi là thành Thăng Long, mở cửa Đại Hưng, tức là đình Quảng Minh ngày nay, phía bắc là cửa Đông Hoa tức là cầu Đông Thị ngày nay, phía tây là cửa Quảng Đức tức đường Giảng Võ ngày nay, còn cửa Diệu Đức ở phía bắc thì nay bị lở xuống sông” v.v...
Những ghi chép về vị trí các cửa thành, kiến trúc di tích liên hoàn như vậy v.v... là những tư liệu hết sức quý giá giúp chúng ta lần theo đó mà đi tìm vị trí Hoàng thành xưa.
Khi kinh đô chuyển vào Phú Xuân thì thành Thăng Long đặt là đại trấn thành. Việc xây dựng, sửa sang và mở rộng quy mô được ghi chép trong nhiều tài liệu và khá phong phú.
Sách Bắc Thành địa dư chí lục ghi: “Trên núi Nùng trong thành dựng 5 toà chính điện, Hoàng cung và 6 nhà ở hai bên tả hữu, xung quanh có tường xây, mở 5 cửa, lại mở một cửa ngách để thông vào nội đình, xây từng bậc dẫn vào đường hẻm... Ngoài đường hẻm là cửa Đoan Môn, trên cổng có khắc hai chữ “Đoan Môn” (di tích này từ triều Lý nay vẫn giữ nguyên), trên cổng đặt lầu trống.
Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Thành tỉnh Hà Nội chu vi hơn 432 trượng, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc, hào rộng trên dưới 4 trượng, mở 5 cửa, ở địa phận hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Từ đời nhà Lê về trước kinh đô đều đặt ở đây, lại có tên là thành Phụng Thiên, ở trong thành Đại La. Thành lâu năm sụt đổ, đến đời Tây Sơn, theo nền cũ đắp thành quanh từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng. Bản triều đầu đời Gia Long lấy làm lỵ sở của Bắc Thành. Năm thứ 3 (1804), triều thần bàn rằng thể chế xây thành của Tây Sơn không hợp qui chế cũ, tâu xin sửa đổi. Năm thứ 4 (1805), sai quan đốc sức việc xây đắp, trong thành dựng kỳ đài và 2 toà hành cung, chính điện, tả hữu vu mỗi bên một toà; mặt sau dựng ba toà nội điện, một tả vu, một hữu vu, sau điện dựng lầu Tinh Bắc; quanh nội điện đều xây tường gạch; lại đằng trước chính điện xây một đường ống bằng đá thẳng đến Đoan Môn, có biển bằng đá khắc hai chữ “Đoan Môn”, đấy là di tích từ đời Lý. Ngoài cửa dựng nhà bia, xây kỳ đài, qui mô rộng lớn. Năm Minh Mệnh thứ 12 chia tỉnh hạt, lấy thành này làm thành tỉnh Hà Nội, năm thứ 16 cho rằng thân thành quá cao, giảm bớt đi 1 thước 8 tấc. Các đời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị dùng thành này làm sở bang giao”.
Ngoài giá trị về lịch sử văn hoá mà ai cũng biết, chúng tôi muốn nói đến những giá trị đặc biệt khác:
- Vị trí của hàng loạt núi non và di tích được ghi trong sách là thông tin đáng tin cậy cho người nghiên cứu dựa vào đó để xác định địa điểm, từ đó góp phần vào việc xác định khu vực Hoàng Thành mà hiện nay giới nhiên cứu trong cả nước đang tập trung sức lực nghiên cứu.
- Việc ghi chép quá trình xây dựng, trùng tu, đổi tên v.v... là những thông tin quý để tìm hiểu lịch sử di tích. Như quán Trấn Vũ, năm Minh Mệnh 21 (1840) đổi thành Chân Vũ; chùa Long Ân, năm Minh Mệnh 2 cho đổi là Sùng Ân điện; năm Thiệu Trị 1 (1841) lại đổi là chùa Hoằng Ân v.v...
- Tài liệu địa chí duy nhất ghi về phủ chúa Trịnh là Thăng Long cổ tích khảo cho chúng ta biết vị trí của phủ như sau: "ở phía đông nam thành 1 dặm, phố Cấm Chỉ huyện Thọ Xương là cửa trước phủ, phố Hoành Đình ở phường Phục Cổ tức là cửa sau phủ". Phố Hoành Đình tức phố Đình Ngang thuộc phường Cửa Nam, vị trí như vậy tương đương với khu vực phố Cửa Nam đến phố Cấm Chỉ ngày nay.
Có thể tóm tắt những giá trị chính của nguồn tài liệu địa chí như sau:
1. Về thay đổi địa dư của Hà Nội: từ lúc chỉ có 2 huyện, sau cải cách địa dư mở rộng nhất: 15 huyện, bao gồm toàn bộ nội thành Hà Nội, tỉnh Hà Đông và tỉnh Hà Nam ngày nay; sau đó chỉ còn 13, rồi 11 huyện.
2. Về thay đổi địa danh: 72 xã thôn có tên trùng với chữ húy phải đổi là Cảo, Đam, Hoa, Tông, Tuyền, Triền, Hồng, Hằng, Thường, Chương, Đường, Hương, Đường, Chiêu, Biện; 4 xã thôn có chữ trùng từ tôn kính là Thiên và Nguyễn. Ngoài ra còn có các lý do khác như tách nhập xã thôn, lý do tu từ v.v...
3. Lớp địa danh đến cấp phường, xã, thôn đời Gia Long, Minh Mệnh, Tự Đức, Đồng Khánh và Thành Thái.
4. Về thành Thăng Long: núi Nùng là nơi nhà Lý xây chính điện, đời Lê đổi là điện Kính Thiên, đời Tây Sơn theo nền cũ đắp thành quanh từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng, thời Nguyễn về cơ bản vẫn theo di tích từ đời Lý mà mở rộng thêm, năm Minh Mệnh 16 cho hạ bớt thành xuống 1 thước 8 tấc.
5. Tên và vị trí 17/21 cửa ô; tên 55 phố thuộc nội thành đầu thế kỷ XX, đặc biệt quý là tên Nôm và mặt hàng bán đặc trưng của các phố.
6. Các núi sông, di tích v.v... ngoài giá trị văn hóa, lịch sử thì vị trí của chúng có giá trị trong việc góp phần giúp các nhà nghiên cứu xác định vị trí Hoàng Thành và các kiến trúc liên quan đến thành Thăng Long xưa.
*
**
Với những giá trị đích thực như vậy, chúng tôi tin rằng những tác phẩm địa chí cổ hiện còn thực sự là những tài liệu quý giá, hữu ích đối với việc nghiên cứu Thăng Long - Hà Nội về nhiều phương diện.
Nguyễn Thuý Nga
CHÚ THÍCH:
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, bản Chính Hòa, Hoàng Văn Lâu dịch chú, GS. Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb. KHXH, H. 1993, T2, tr.12.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. tr.507.
(3) Các nhà nghiên cứu như GS. Trần Quốc Vượng, Vũ Tuân Sán, Nguyễn Khắc Đạm, Nguyễn Vinh Phúc, Hoàng Đạo Thúy v.v... trong các công trình nghiên cứu về Hà Nội đã lập danh sách 36 phường, nhưng chưa khớp nhau.
(4) Huyện Hoàn Long trước thuộc tỉnh Hà Đông, sau thành Đại lý đặc biệt của thành phố Hà Nội.
(5) Về lệnh kiêng húy và các chữ húy, xin xem: Chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Ngô Đức Thọ, Nxb. Văn hóa, H. 1977./.
Địa danh gắn liền với quá trình lịch sử, truyền thống văn hóa, nguồn gốc cư dân của từng địa phương. Qua nghiên cứu địa danh, chúng ta có được nguồn tư liệu gốc để nghiên cứu lịch sử hình thành, biến đổi và phát triển của mỗi địa phương, của từng tộc người.
Eo Gió Nhơn Lý là một địa danh đầy nắng và gió với cảnh quan hoang sơ và kì vĩ tiêu biểu cho vẻ đẹp thiên nhiên của vùng đất Quy Nhơn. Eo Gió – Nhơn Lý độc đáo từ tên địa danh cho tới vẻ đẹp lãng mạn mà nên thơ, chắc chắn sẽ làm “xiêu lòng” bất cứ du khách nào từng một lần ghé thăm.
Hòn đảo núi lửa này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn trước khi hoàn toàn biến mất vào lòng biển sâu.