Suối Lương là một con suối đẹp chảy lượn lờ hiền hòa dưới chân đèo Hải Vân và được bao quanh bởi các khu rừng. Khung cảnh thiên nhiên ở đây tươi đẹp với một màu xanh sinh thái của rừng, cùng với tiếng gió thổi vi vu, tiếng róc rách của suối chảy, tạo nên một không gian tự nhiên và thư thái cho tâm hồn.Với diện tích trên 6ha, không gian xanh ngát, Suối Lương là một điểm du lịch lý tưởng với những công trình kiến trúc độc đáo, hội tụ nét đẹp văn hoá ba miền của dân tộc Việt Nam.

Ngay từ cổng vào Khu du lịch, với cánh chim Lạc cùng biểu tượng trăm trứng của mẹ Âu Cơ được bài trí khá ấn tượng. Bên trong, nhà hàng trung tâm được thiết kế theo kiểu kiến trúc Chăm với những đường nét hoa văn nguyên mẫu, độc đáo, cùng những vật dụng Chăm khá lạ mắt, mang đậm dấu ấn văn hóa Chămpa một thời.Bên cạnh đó một không gian thuần Việt cũng được khéo léo tái hiện bằng các kiểu nhà của những dân tộc ít người, như nhà sàn người Mường, Tày, K’tu, Dao, Nùng, những ngôi nhà cổ kính xứ Quảng, nhà rường Huế

Trung tâm của khu du lịch là con suối Lương nước trong ngần với các đàn rùa, voi được nghệ nhân làng đá Non Nước (Đà Nẵng) tạc từ những hòn đá ngay bên dòng suối. Một guồng quay nước lớn và hoành tráng, một chiếc cầu treo nhỏ nối đôi bờ suối Lương… Tất cả làm nên những điểm nhấn khiến cảnh quan nơi đây thêm hữu tình.

Suối Lương còn có một “chợ quê” với hồ Cô Tấm và Quả Thị, chày giã gạo bằng nước cùng những sản phẩm truyền thống như đèn lồng Hội An, đất nung Cẩm Hà, đồng Phước Kiều, cùng với văn hoá ẩm thực truyền thống miền Trung như: mì Quảng, bánh đúc, bánh bột lọc, bánh xèo, bánh nậm…
Đến với Khu du lịch Suối Lương, du khách sẽ có dịp khám phá những điều kỳ diệu mà thiên nhiên ban tặng, có thể đắm mình dưới dòng nước mát lạnh để cảm nhận những giây phút yên bình, lắng nghe âm thanh của tiếng suối chảy, khơi nhẹ những tiếng róc rách vào gầm đá, hòa cùng tiếng chim, tiếng xào xạc của núi rừng, đặc biệt còn có thể ngắm cảnh đẹp của toàn vịnh Đà Nẵng từ trên cao.

Bạn sẽ được đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên hiền hòa, thơ mộng, trong đó có nhiều thú vui hấp dẫn như trà đạo, trò chơi dân gian, leo núi, tắm suối, cắm trại, dựng lều ngoài trời… giữa không khí trong lành của núi rừng, bên dòng suối Lương tươi mát. Đặt biệt, khu du lịch sinh thái Suối Lương – Hải Vân Park đã đưa vào một chương trình du lịch Đà Nẵng mạo hiểm mới: leo núi và khám phá Hải Vân Sơn, đây là chương trình hấp dẫn dành cho những người yêu thích mạo hiểm, nhất là khu vực được mệnh danh “Hải Vân đệ nhất hùng quan” . Nào bạn còn chần chừ gì nữa hãy đến đây để tận hưởng không khí trong lành và mát lạnh của dòng suối mà thiên nhiên ban tặng cho khu vực này.
Nguồn: http://danangexplorer.com/
Ok-om-bok là lễ hội lớn sau lễ hội Chol-chnam-thmay của đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Nếu như Chol-chnam-thmay là lễ hội mừng năm mới và diễn ra vào đầu mùa mưa (giữa tháng 4 dương lịch) thì lễ hội Ok-om-bok được tổ chức vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, thời điểm vừa thu hoạch vụ lúa mùa xong và là cao điểm của mùa nước lũ trong năm.
Thú vị là trong câu chuyện mà Tâm kể, có xuất hiện một người là thầy ở Việt Nam (trước khi Tâm lên đường tới Nhật, người thầy này dặn là cần đến viếng mộ cụ Trần Đông Phong), và một nữ đồng nghiệp lớn tuổi gốc Hà Nội đang ở Tokyo (người đã sống ở Nhật trong 20 năm cùng với con trai), thì đó chính là hai người đàn anh đàn chị thuộc nhóm đầu 1990
Đọc lịch sử thời đại Tây Sơn chúng ta thấy có ba mối tình khá nổi bật. Cuộc hôn nhân được nhiều người chú ý nhất và cũng nhiều người khai thác nhất là Nguyễn Huệ-Lê Ngọc Hân. Mối tình trai tài gái sắc này đã trở thành một đề tài để ca tụng và thêu dệt theo mẫu anh hùng sánh với thuyền quyên, mặc dầu sự kết hợp của hai người có thể bao gồm nhiều ẩn ý chính trị hay đổi chác. Mối tình thứ hai thơ mộng hơn. Đó là mối tình của một tiểu thư khuê các với một văn nhân mang chí lớn: Phạm Thái và Trương Quỳnh Như, được biết đến vì đã xuất hiện trong một tiểu thuyết thời tiền chiến, Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng. Vì bị ép duyên, Trương Quỳnh Như đã tự tử chết khi tuổi còn rất trẻ. Mối tình Phạm Thái-Quỳnh Như được Sở Cuồng Lê Dư thuật lại tương đối kỹ lưỡng trong Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập (Hà Nội: Nam ký, 1932, tr. 1-5).