Trung tâm khảo cứu và biên soạn
Địa chí Việt Nam
Chào mừng đến với website Trung tâm khảo cứu và biên soạn Địa chí Việt Nam.

Hòn đảo duy nhất Việt Nam nổi lên một lần rồi biến mất vĩnh viễn trong lòng biển, là hòn đảo nào? Ở đâu?

09/10/2024746

Hòn đảo núi lửa này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn trước khi hoàn toàn biến mất vào lòng biển sâu.

Hòn Tro hay còn được gọi là đảo tro (tiếng Pháp: île des Cendres), là một hòn đảo mới hình thành vào năm 1923 ở phía Nam đảo Phú Quý (thuộc tỉnh Bình Thuận), trên vùng biển ngoài khơi Nam Trung Bộ, Việt Nam. Hòn đảo núi lửa này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn trước khi hoàn toàn biến mất vào lòng biển sâu.

Vào đầu năm 1923, người dân địa phương ven quần đảo Phú Quý đã chứng kiến một hiện tượng kỳ vĩ: cột khói lửa khổng lồ bốc cao cùng tiếng nổ vang dội giữa đại dương. Sự kiện địa chất này đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện một hòn đảo, được gọi là Hòn Tro.

Theo lời kể của các bô lão và ghi chép từ thủy thủ tàu Vacasamaru của Nhật Bản, khu vực này xuất hiện cột khói đen dày đặc, bốc cao hơn 2.000m, cùng tiếng nổ vang dội liên hồi. Núi lửa phun trào dữ dội vào ngày 8/3/1923, nhưng chỉ với cường độ yếu. Sau một tuần tạm ngừng, ngọn núi lửa phun trở lại lần cuối vào ngày 20/3/1923.

Đứng trên đỉnh núi Cấm nhìn ra khơi, Hòn Tro đã chìm sâu dưới biển, chỉ còn trong ký ức dân gian và trong những tài liệu khoa học. Ảnh: P.X.D

Sự xuất hiện của Hòn Tro sau hoạt động núi lửa ngoạn mục đã thu hút sự chú ý đặc biệt của giới khoa học thời bấy giờ. Ghi chép lịch sử cho thấy vào ngày 13/3/1923, đoàn khảo sát thủy văn Pháp ở Đông Dương được giao nhiệm vụ khẩn cấp tìm hiểu về hòn đảo mới hình thành tại quần đảo Phú Quý. Chỉ 4 ngày sau, vào ngày 17/3/1923, họ đã có mặt tại hiện trường, tiến hành khảo sát thực địa và vẽ bản đồ chi tiết khu vực Hòn Tro. Kết quả khảo sát được trình bày lên Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, hé mở bức tranh về kỳ quan thiên nhiên độc đáo này.

Mặc dù Hòn Tro đã tan biến vào lòng đại dương, ký ức về hòn đảo núi lửa phù du này vẫn ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử địa chất và trong lòng người dân địa phương.

Theo ghi chép, Hòn Tro được hình thành từ những đống mảnh vụn màu đen, nhẹ xốp - đặc điểm điển hình của tro núi lửa, do đó, hòn đảo được đặt tên là "Hòn Tro". Bề mặt đảo xuất hiện nhiều khối đặc sít hơn, tập trung chủ yếu ở đỉnh điểm cao nhất, nơi có độ cao 0,75m và bề ngang 0,5m. Hòn đảo mang hình dạng trăng lưỡi liềm hay móng ngựa, với hai đầu nhọn bị cắt gọt thành vách đứng.

Tuy nhiên, Hòn Tro chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Ba tháng sau khi xuất hiện, hòn đảo đã biến mất hoàn toàn. Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng Hòn Tro có thể đã bị bào mòn và tan rã bởi sức mạnh của sóng gió, do cấu tạo từ những sản phẩm núi lửa chưa được kết dính chặt chẽ. Do đó, Hòn Tro được mệnh danh là "hòn đảo phù du", chỉ để lại dấu ấn trong ký ức dân gian và những trang sử liệu khoa học.

Việc thiết lập một trạm quan sát địa chấn tại đảo Phú Quý, nơi có vị trí gần gũi với cụm núi lửa Hòn Tro, là một bước đi thiết yếu.

Mặc dù Hòn Tro đã tan biến vào lòng đại dương, ký ức về hòn đảo núi lửa phù du này vẫn ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử địa chất và trong lòng người dân địa phương. Tuy nhiên, sự biến mất của Hòn Tro không đồng nghĩa với việc hoạt động núi lửa ở Nam Trung Bộ đã chấm dứt. Trên thực tế, nhiều nhà khoa học lo ngại rằng những ngọn núi lửa ẩn chứa dưới đáy biển trong khu vực này, đặc biệt là khu vực Hòn Tro, vẫn có thể “thức giấc” bất cứ lúc nào.

Hòn Tro không còn, tuy nhiên một số nhà khoa học lo ngại hoạt động núi lửa ở Nam Trung Bộ vẫn có thể xuất hiện, đặc biệt là khu vực Hòn Tro. Do đó, việc thiết lập một trạm quan sát địa chấn ở đảo Phú Quý sát với cụm núi lửa Hòn Tro nhằm theo dõi và dự báo sự xuất hiện của chúng qua những chấn động nhỏ trước khi phun là cần thiết.

Nguồn: doanhnghiepvn.vn

Xem thêm: Con sông hẹp nhất thế giới gây sửng sốt

 

Các bài viết khác

Xem thêm
Nguyễn Trãi - Người biên soạn Bách khoa Toàn thư Việt Nam

Nguyễn Trãi - Người biên soạn Bách khoa Toàn thư Việt Nam

Nguyễn Trãi là nhà văn, nhà thơ lớn, nhà tư tưởng, nhà chính trị quân sự lỗi lạc, anh hùng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, tác gia bách khoa thư Việt Nam thời trung đại. Việc biên soạn mục từ “Nguyễn Trãi” góp phần giúp các nhà biên soạn bộ Bách khoa toàn thư Việt Nam có thêm một kênh tham khảo trong khi biên soạn các mục từ nhân danh (tác giả và nhân vật).

Hải cảng miền đông bắc và hệ thống thương mại đàng ngoài thế kỷ XVII
Địa chí14/06/2023

Hải cảng miền đông bắc và hệ thống thương mại đàng ngoài thế kỷ XVII

Doméa đơn thuần là một bến neo đỗ tàu (anchoring place) hoặc bến cảng (harbor), đồng thời là nơi lưu trú tạm thời của thủy thủ đoàn (đa số sống và sinh hoạt trên boong tàu mặc dù có đôi khi lên bờ sinh sống) trong khoảng 2-3 tháng để chờ nhận hàng và khởi hành đi Nhật Bản hoặc các cảng Đông Nam Á. Doméa đồng thời là nơi bốc hàng hóa xuất khẩu (tơ lụa, gốm sứ Đàng Ngoài) lên tàu và dỡ hàng hóa nhập khẩu (hương liệu, vải vóc, bạc, đồng.....) xuống ghe thuyền địa phương để đưa lên Kẻ Chợ/Phố Hiến.

Nguồn: Internet
Lễ Hội05/08/2023

Ý nghĩa lễ tế giao xưa và nay, Nghiên cứu và Phát triển số 2 (79), 2010

Tế Giao là cuộc lễ tế trời đất, có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa cổ đại rồi lan truyền sang một số nước trong khu vực. “Giao” là vùng đất bên ngoài kinh thành, người xưa cử hành lễ tế trời ở Nam Giao vào ngày đông chỉ và tế đất ở Bắc Giao vào ngày hạ chí. (Lý Hồng Phúc (biên tập), Khang Hy tự điển, Hán ngữ đại từ diễn xuất bản xã, Thượng Hải, 2005, tr. 1257). Tế Giao được thực hành theo quan niệm và nghi thức Khổng giáo, trong đó, vua được xem là “thiên tử”, đại diện dân để cúng tế trời đất và cầu xin được ban cho phong điều vũ thuận, quốc thái dân an. Ở Việt Nam, Tế Giao được tiếp thu và thực hành lần đầu tiên dưới thời Lý (1010-1225). Chỉ riêng thời Trần không cử hành lễ Tế Giao, các triều đại quân chủ Việt Nam còn lại đều coi đây là đại lễ và cử hành nghi lễ một cách trọng thế. Cách thức Tế Giao thay đổi ít nhiều theo từng triều đại, khi thì phân tế, khi thì hợp tế cả trời và đất ở Nam Giao. Cuộc lễ phản ánh một cách đầy đủ những quan niệm, tư tưởng, các giá trị văn hóa nghệ thuật đặc trưng của cung đình Việt Nam trong lịch sử.