“Hoàng Hoa sứ trình đồ” (Hành trình đi sứ Trung Hoa) là cuốn sách cổ của dòng họ Nguyễn Huy ở làng Trường Lưu (nay thuộc xã Trường Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh), được sao chép lại năm 1887 từ bản gốc của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh.
Phần chính của cuốn sách là tập bản đồ ghi chép với nhiều hình ảnh, thông tin phong phú, quý hiếm về hành trình đi sứ của sứ thần Đại Việt thế kỷ 18 do Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789) biên tập, hiệu đính và chú thích trong các năm 1765 – 1768, từ các tư liệu của nhiều thế hệ đi sứ trước, đồng thời bổ sung các chi tiết liên quan đến chuyến đi sứ năm 1766 - 1767 do ông làm Chánh sứ.
Tư liệu quý này bao gồm các bản đồ được vẽ với 3 loại màu trên giấy dó cùng các ghi chép bằng chữ Hán với nội dung chính là: Bản đồ về hành trình đi sứ từ biên giới giữa Việt - Trung qua các châu, phủ, huyện, dịch trạm tới điểm cuối là huyện Tân Thành, Bắc Kinh; ghi chú rõ ràng về quá trình đi sứ: thời gian và địa điểm qua các nơi dừng nghỉ theo lộ trình thủy bộ chiều đi và chiều về; ngày lưu trú và các hoạt động của đoàn sứ bộ; chiều dài của mỗi dịch trạm, chiều dài toàn bộ đường thủy bộ đi sứ; cấu trúc, thời gian xây các cửa cung của Yên Kinh; cùng các ghi chép tỉ mỉ về địa hình sông núi, phong cảnh, con người, và nghi lễ ngoại giao khi qua các địa phương Trung Quốc và Việt Nam.
Với kích thước 30x20cm, dày 2cm, sách bao gồm 7 phần, trong đó phần chính là bản đồ hành trình gồm 204 trang ghi chép cụ thể và miêu tả về thiên nhiên, con người, thành, làng, các di tích, danh thắng, các hoạt động giao tiếp của sứ bộ với người dân và chính quyền.
“Hoàng Hoa sứ trình đồ” được công nhận là Di sản tư liệu ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là dịp để nhân dân Hà Tĩnh tri ân công lao to lớn của các bậc tiền nhân, tự hào hơn về những giá trị văn hóa - lịch sử mà người xưa để lại, qua đó nhận thức rõ hơn về trách nhiệm của mình đối với việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa của quê hương và dân tộc.
Lê Minh (tổng hợp)
Nguồn: scov.gov.vn
Xem thêm: Vườn quốc gia Gunung Mulu
Tế Giao là cuộc lễ tế trời đất, có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa cổ đại rồi lan truyền sang một số nước trong khu vực. “Giao” là vùng đất bên ngoài kinh thành, người xưa cử hành lễ tế trời ở Nam Giao vào ngày đông chỉ và tế đất ở Bắc Giao vào ngày hạ chí. (Lý Hồng Phúc (biên tập), Khang Hy tự điển, Hán ngữ đại từ diễn xuất bản xã, Thượng Hải, 2005, tr. 1257). Tế Giao được thực hành theo quan niệm và nghi thức Khổng giáo, trong đó, vua được xem là “thiên tử”, đại diện dân để cúng tế trời đất và cầu xin được ban cho phong điều vũ thuận, quốc thái dân an. Ở Việt Nam, Tế Giao được tiếp thu và thực hành lần đầu tiên dưới thời Lý (1010-1225). Chỉ riêng thời Trần không cử hành lễ Tế Giao, các triều đại quân chủ Việt Nam còn lại đều coi đây là đại lễ và cử hành nghi lễ một cách trọng thế. Cách thức Tế Giao thay đổi ít nhiều theo từng triều đại, khi thì phân tế, khi thì hợp tế cả trời và đất ở Nam Giao. Cuộc lễ phản ánh một cách đầy đủ những quan niệm, tư tưởng, các giá trị văn hóa nghệ thuật đặc trưng của cung đình Việt Nam trong lịch sử.
Địa chí là loại sách ghi chép một cách tổng hợp các mặt từ địa lý tự nhiên, địa hình, địa chất, thời tiết, khí hậu đến sản vật, phong vật, cộng đồng dân cư, tộc người, đến chính trị kinh tế, lịch sử, văn hóa xã hội... của một quốc gia, một khu vực, một tỉnh thậm chí của một làng, một xã. Không chỉ sách địa chí ngày nay, mà từ xưa các bộ địa chí cổ của Việt Nam đều có mục đích cung cấp kiến thức hiểu biết toàn diện và hệ thống về mảnh đất con người nói chung hay một vùng lãnh thổ - hành chính - cư dân tùy theo từng cấp độ đã được hình thành trong tiến trình lịch sử.
Ở Việt Nam, trong các con sông ngạo nghễ thì chỉ có sông Đà được lưu danh thiên cổ bằng câu văn: “Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu”. Có nghĩa là, tất cả các con sông đều chảy về Đông, chỉ có một mình sông Đà xuôi về Bắc.