Đinh Bộ Lĩnh sinh năm Giáp Thân (924). Ông là con trai của Đinh Công Trứ - giữ chức Thứ sử châu Hoan (vùng Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), thân mẫu là Đàm Thị hay còn gọi là Thiềm Nương.
Năm Canh Tuất (940), quan Thứ sử Đinh Công Trứ qua đời, tang lễ vừa xong thì tư dinh hỏa hoạn cháy sạch. Khi đó, Đàm Thị cùng con trai Đinh Bộ Lĩnh tìm đường về kinh đô Cổ Loa để xin mệnh của Ngô Vương (Ngô Quyền). Quãng đường dài hơn 1 tháng đầy gian khổ, hai mẹ con mới tới được kinh đô.
Nghĩ đến công thần triều đình đã qua đời, để lại vợ góa con côi khiến Ngô Vương ngậm ngùi. Ngô Vương ban cho mẹ con vàng lụa để về quê làm nhà tậu ruộng. Sau truyền Đinh Bộ Lĩnh đến gần ngai vàng, nhà vua xoa đầu hỏi: “Cháu có muốn xin ta điều gì không?”
Đinh Bộ Lĩnh liền tâu: “Tiểu thần xin nhà vua ban cho một thanh gươm ạ!”. Khi vua hỏi xin gươm để làm gì thì nhận được câu trả lời dứt khoát: “Đến khi thần khôn lớn sẽ dùng thanh gươm ấy phò tá nhà vua đánh dẹp bốn phương, định yên nước nhà”.
Nghe xong, Ngô Vương vui cười khen ngợi cậu bé tuổi nhỏ mà đã khí phách anh hùng, xứng danh dòng dõi nhà tướng rồi sai người hầu mang một thanh gươm quý cho Đinh Bộ Lĩnh.
Thanh gươm này được Đinh Bộ Lĩnh coi như báu vật, luôn gìn giữ bên người. Khi trưởng thành dấy cờ nghĩa dẹp loạn, thanh gươm ấy theo ông suốt quãng thời gian dài chinh chiến gian khổ cho đến khi thành nghiệp lớn.
Theo sử chép về Đinh Bộ Lĩnh, sau khi Đinh Công Trứ qua đời, Đàm Thị đưa con trai về quê cũ tại Hoa Lư, Ninh Bình ở. Đinh Bộ Lĩnh hằng ngày chơi với lũ trẻ chăn trâu ngoài đồng, được mọi người tôn làm “chủ tướng”. Hễ cậu muốn đi đâu, bọn trẻ sẽ làm kiệu rước đi, lấy bông lau làm cờ rước kèm 2 bên. Bông lau còn được lũ trẻ dùng làm cờ lúc chơi đánh trận giả.
Khi đó, thanh gươm báu được Ngô Vương ban đã được Đàm Thị cất kỹ cẩn thận. Lúc chơi trận giả với đám trẻ mục đồng, Đinh Bộ Lĩnh dùng thanh gươm gỗ để tung hoành. Đây có lẽ là vũ khí đầu tiên của anh hùng động Hoa Lư.
Thanh gươm mà Đinh Bộ Lĩnh dùng để chơi trận giả được làm bằng gỗ sòi. Truyền tụng tại Hoa Lư có kể, khi tập trận cùng lũ trẻ Đinh Bộ Lĩnh thường đeo gươm gỗ, cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ đồng vô cùng oai phong. Sau mỗi buổi tập trận, lũ trẻ lại khoanh tay làm kiệu rước Đinh Bộ Lĩnh với bông lau làm cờ, nón làm lọng.
Nhiều người đồn rằng, có lẽ trong tay người có “mệnh Thiên tử” nên thanh gươm gỗ có khả năng đoạt mạng người. Tại ngọc phả đền Lăng (xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, Hà Nam) có câu chuyện rằng: “Một hôm Đinh Bộ Lĩnh hứa với lũ mục đồng núi Mai Viên, nay mai ta sẽ mổ trâu khao thưởng, ngày ấy nếu ai vắng mặt sẽ bị chém đầu.
Đến ngày, ông sai mổ trâu của cậu mình khao quân. Có một tên mục đồng đến muộn. Người này vi phạm mệnh lệnh, Đinh Bộ Lĩnh cho lôi cổ ra dùng gươm gỗ chém đầu. Ai ngờ tên mục đồng chết ngay tại chỗ. Cả lũ sợ xanh mắt, vội mang xác tên này ra sườn núi chôn”.
Câu chuyện này cũng được nhắc lại y hệt trong thần phả Đinh Tiên Hoàng Đại thắng hoàng đế ở đền Đặng Xá (huyện Kim Bảng, Hà Nam). Sau khi bị chú (có thuyết nói là cậu) đuổi bắt vì bắt trâu giết “khao quân” và làm chết người, Đinh Bộ Lĩnh đã bỏ lại thanh gươm gỗ trong lúc chạy trốn.
Nguồn: songdep.com.vn
Xem thêm: Hai thành phố mất tích hàng thế kỷ 'lộ diện' dưới công nghệ mới
Doméa đơn thuần là một bến neo đỗ tàu (anchoring place) hoặc bến cảng (harbor), đồng thời là nơi lưu trú tạm thời của thủy thủ đoàn (đa số sống và sinh hoạt trên boong tàu mặc dù có đôi khi lên bờ sinh sống) trong khoảng 2-3 tháng để chờ nhận hàng và khởi hành đi Nhật Bản hoặc các cảng Đông Nam Á. Doméa đồng thời là nơi bốc hàng hóa xuất khẩu (tơ lụa, gốm sứ Đàng Ngoài) lên tàu và dỡ hàng hóa nhập khẩu (hương liệu, vải vóc, bạc, đồng.....) xuống ghe thuyền địa phương để đưa lên Kẻ Chợ/Phố Hiến.
Vào các ngày 20/2 và 21/2 (tức các ngày 11, 12 tháng Giêng năm Giáp Thìn), tại Khu di tích lịch sử, văn hóa Đền Trần-Chùa Tháp (phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định) đã diễn ra các nghi lễ quan trọng của Lễ hội khai ấn Đền Trần, đó là lễ rước kiệu Ngọc Lộ và lễ nước, tế cá.
Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định là sách thông chí đầu tiên thời nhà Nguyễn, nhưng nội dung sách này chủ yếu ghi chép lộ trình cũng như sách Toản tu Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Công Đạo, điểm khác là Địa dư chí không có bản đồ đính kèm như Lộ đồ thư, tuy nhiên phong phú hơn vì ngoài đường thiên lý chạy suốt từ Bắc đến Nam tận cùng của đất nước trong phần gọi là Dịch lộ, còn có những đường lưu hành trong mỗi dinh trấn (liên huyện, liên xã) trong phần gọi là Thực lục.