Người ta vẫn gọi những mảnh gốm men xanh lam có nguồn gốc xuất xứ từ những nước Tây Á là gốm Islam (Islamic Ceramic). Đây là loại gốm có xương gốm bở, xốp, do vậy không được bền. Tuy nhiên, chính màu sắc xanh biếc của nước men đã làm nên giá trị của loại gốm này. Màu men đẹp mê hồn ấy cũng chính là lý do khiến gốm Islam rất được cư dân ở nhiều nước ưa chuộng, trong đó có người Việt Nam xưa kia.
Trước khi tìm thấy những mảnh gốm Islam tại khu khảo cổ Hoàng thành Thăng Long, người ta đã tìm thấy khoảng 100 mảnh gốm loại này ở khu vực miền Trung Việt Nam. Thái Lan chỉ tìm được khoảng 400 mảnh gốm sứ Islam, trong khi Trung Quốc cũng chỉ tìm thấy 300 mảnh gốm loại này trong quá trình khảo cổ. Điều đó cho thấy, gốm sứ Islam có mặt ở vùng đất miền Trung Việt Nam tương đối nhiều, nói cách khác, sự giao thương giữa vùng đất miền Trung Việt Nam thuở xưa với các lái buôn đến từ Tây Á diễn ra khá sầm uất.
Bởi vậy, việc lần đầu tiên tìm thấy một vài mảnh gốm Islam tại khu vực Hoàng thành Thăng Long khiến các nhà khảo cổ tỏ ra rất phấn khởi. Họ hy vọng rằng đây sẽ là những minh chứng bước đầu để chứng minh rằng giữa Đại Việt và Tây Á đã có mối giao thương từ khoảng thế kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ X.
Tuy nhiên, với số lượng mảnh gốm Islam tìm thấy ở Hoàng thành Thăng Long như thế, thật khó để có thể dùng làm vật chứng có đủ sức thuyết phục để nói rằng triều đình thời Lý đã có quan hệ làm ăn, buôn bán với khu vực Tây Á. Nếu có quan hệ buôn bán như vậy, số lượng gốm Islam sẽ phải được tìm thấy nhiều hơn.
Trong khi đó, nếu coi rằng Islam là dòng gốm quý do sự vận chuyển cực kỳ khó khăn với điều kiện thời bấy giờ, thì việc nhà vua được cung tiến một vài món đồ như vậy là chuyện bình thường. Do vậy, sự xuất hiện của một vài mảnh gốm Islam tại khu khai quật khảo cổ Hoàng thành Thăng Long thực sự chưa đủ để chứng minh mối giao thương giữa Đại Việt và Tây Á.
Có lẽ, cần thêm nhiều chứng cứ hơn để nhận định về quan hệ giao thương giữa Đại Việt và Tây Á từ khoảng thế kỷ X có cơ sở vững vàng hơn.
Nguồn: hoangthanhthanglong.vn
Xem thêm: Những bí ẩn xung quanh Baikal- Hồ nước ngọt sâu nhất hành tinh
Vượt qua “thời gian chiêm bao” mà tư duy con người còn chìm trong không gian hoang dã với hiện tượng thờ các lực lượng "hồn nhiên" như cây cỏ, đất đá, một khúc của ngã ba sông,... để rồi con người tiến lên xây dựng một tổ chức mang tính xã hội. Trên đường đi đó dần dần con người định hình nhân dạng cho các thần linh mà trong đó một vị thần linh cơ bản đầu tiên là nữ thần. Có thể tin được điều đó, bởi trong buổi hồng hoang, sự phân công lao động sớm nhất là phân công lao động nam - nữ. Nam thì săn bắn/bắt, công việc này bấp bênh, hôm được hôm không, thiếu tính chất thường xuyên để đảm bảo cuộc sống. Còn nữ giới với hái lượm rau củ trong rừng, đó là lương thực cơ bản để nuôi sống gia đình. Mặc nhiên vai trò của nữ trở nên cực kỳ quan trọng, do đó đã dẫn đến một hiện tượng khi nhân dạng hóa thần linh thì vị thần đó tất yếu mang dạng nữ. Khởi đầu, người Việt trông cậy vào của cải được thu lượm từ rừng nên người ta tôn trọng thần rừng, hội các điều kiện lại thì vị thần nhân dạng đầu tiên có thể nghĩ được là bà chúa rừng với nhiều chức năng khác nhau - Trước hết là thần của cải - Trong quá trình tồn tại, người ta hội dần vào bà nhiều chức năng, đầu tiên là bà “mẹ Thiêng liêng" với quyền năng vô bờ bến; một bà “mẹ Thế gian”, bởi người ta coi từ bà mà muôn loài nảy sinh và phát triển. Đồng thời bà là một thần linh đứng đầu bách thần nên bà còn mang tư cách là một đấng “vô cùng” - người Việt đã dần hội tất cả những gì linh thiêng liên quan vào chính bà Đông Cuông - một bà mẹ vũ trụ khởi nguyên của người Việt.
Lễ hội Đền Hùng ở đâu? Cùng khám phá ngay thông tin chi tiết cùng giới thiệu về Lễ hội Đền Hùng hấp dẫn trong bài viết dưới đây.
Trong kho thư tịch cổ viết về Thăng Long - Hà Nội hiện còn một mảng tư liệu đặc biệt quý giá dùng để nghiên cứu địa lý lịch sử, diên cách địa danh và nhiều mặt khác. Đó là các sách địa chí.