Tạp chí du lịch danh tiếng Wanderlust (Anh) vừa công bố danh sách những di sản ấn tượng nhất trong số hơn 40 di sản thế giới được UNESCO công nhận ở Đông Nam Á. Việt Nam có tới 3 đại diện nằm trong danh sách này.
Trong 11 quốc gia tại Đông Nam Á, có 41 điểm đến được UNESCO công nhận là di sản thế giới, bao gồm các công viên hoang dã, kỳ quan thiên nhiên, đền thờ… Tạp chí du lịch Wanderlust chọn 16 điểm để gợi ý độc giả nên ghé thăm, trong đó Việt Nam có 3 cái tên được nhắc đến là vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An và vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.

Một trong những trải nghiệm tuyệt vời nhất tại vịnh Hạ Long là chu du trên một chiếc thuyền chiêm ngưỡng thiên nhiên với làn nước xanh ngắt màu ngọc lục bảo, những vách núi đá vôi sừng sững được bao phủ bởi những khu rừng nguyên sinh nhiệt đới.
Wanderlust nhận định, mặc dù Việt Nam không phải nơi duy nhất có những khối núi đá vôi khổng lồ, song không có nơi nào trên thế giới có quy mô ấn tượng hơn vịnh Hạ Long. Nơi đây sở hữu hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ giữa đại dương mênh mông.
Được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới lần đầu tiên vào năm 1994, sau gần 30 năm, nơi đây gần như không có gì thay đổi, trong khi lượng du khách đến ngày càng tăng.
Quá trình xói mòn địa chất ở vịnh Hạ Long đã tạo nên những hang động kỳ bí và ấn tượng. Du khách có thể đi thuyền vào sâu bên trong chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các hang động này, hoặc thăm các làng nổi, khám phá những bãi biển tuyệt đẹp.

Hội An được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới có lẽ bởi vẻ đẹp hoài cổ cùng sự yên bình, nhịp sống chậm rãi của người dân địa phương. Khác với hình ảnh phố Hội trầm mặc ngày nay, nơi đây từng là một thị trấn cảng thịnh vượng, là nơi gặp gỡ, giao thương của các thương nhân từ khắp nơi trên thế giới.
Những ký ức về quá khứ với đa dạng văn hóa của Hội An được thể hiện ở những tòa nhà kiến trúc Pháp, hội quán người Hoa và cây cầu Nhật Bản trang nhã. Sự kết hợp giữa lối kiến trúc phương Tây cộng hưởng những văn hóa phương đông đã tạo nên một tổng thế kiến trúc Hội An vừa hài hòa, vừa độc đáo.
Dọc theo con phố là những cửa hàng với đa dạng sản phẩm, đặc trưng nhất chính là những chiếc đèn lồng với những màu sắc rực rỡ, nổi bật. Buổi tối, ánh sáng rực rỡ của những chiếc đèn dường như bao trùm lên khắp phố, sáng rực cả góc trời đêm.

Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận năm 2003. Đến năm 2009, phái đoàn Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh đã chính thức công bố phát hiện hang Sơn Đoòng với quy mô kỳ vĩ. Từ sau đó, ngày càng có nhiều hang động khổng lồ được tìm thấy, ẩn giấu sau đó là những măng đá, nhũ đá lấp lánh.
Ngoài ra, du khách có thể lựa chọn những hang động dễ tiếp cận hơn như động Thiên Đường, động Phong Nha, hang Tối đều là những địa điểm lý tưởng để chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ bí, những khối đá khổng lồ đa dạng hình thù, hay đơn giản là tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ nơi đây.
Nguồn: vietgiaitri.com
Xem thêm: Thành phố Venice: nét thơ từ những kênh đào hơn 1000 tuổi ở Ý
Chiếc ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” nằm trong số 14 “kim ngọc, bảo tỷ” (ấn vàng, ấn ngọc) mà Hoàng đế Minh Mạng đã cho chế tác vào thời ông trị vì (1820-1841). Trong đó, 13 chiếc vẫn đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam. Chiếc duy nhất còn lại chính là ấn “Hoàng đế chi bảo” có số phận gian truân, nhưng cuối cùng cũng được hồi hương về cố quốc mới đây, tạo ra được một bộ sưu tập ấn thời Minh Mạng hoàn mỹ, toàn vẹn.
Bà Tống Thị Lan (còn có tên là Liên), người huyện Tống Sơn (Thanh Hóa), con gái thứ ba của Quy quốc công Tống Phúc Khuông,(2) mẹ họ Lê, quê gốc xã Bùi Xá, huyện Tống Sơn, xứ Thanh Hoa (Thanh Hóa); sinh ngày 25 tháng Chạp năm Tân Tỵ (19/01/1762).
Hát bóng rỗi là loại hình nghệ thuật tổng hợp có chức năng thực hành nghi lễ tại cơ sở tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ. Trong cuốn Gia Định thành thông chỉ của Trịnh Hoài Đức biên soạn đầu thế kỷ XIX có đề cập tới thói quen: “tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần như bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động; quen gọi các phu nhân tôn quý bằng bà: bà Thủy Long, bà Hỏa Tình, cô Hồng, cô Hạnh…” (1) của người Gia Định. Còn sách Đại Nam nhất thống chí viết: ở tỉnh Định Tường thường “hay dùng cô đồng mùa hát, lấy làm vui thích”. (2)