
Tất cả đều được công nhận là Di tích quốc gia của Nhật Bản. Cung điện Nara được chỉ định là Di tích Lịch sử đặc biệt, còn Rừng nguyên sinh Kasugayama là Di tích tự nhiên đặc biệt. Các công trình khác đáng chú ý bao gồm Tōdai-ji, chùa Kofuku-ji cùng các công trình nằm tại Rừng nguyên sinh Kasugayama và Công viên Nara.

Địa điểm của Heijô-kyô đã được lựa chọn cẩn thận theo nguyên tắc địa chất cổ xưa. Cung điện, nằm ở cuối phía bắc của đại lộ trung tâm, chiếm 120 ha. Nó bao gồm các tòa nhà chính thức nơi diễn ra các nghi lễ chính trị và tôn giáo, đáng chú ý là Daigokuden (hội trường khán giả hoàng gia) và Chôdô-in (hội trường nhà nước), và dinh thự hoàng gia (Dairi), cùng với các khu phức hợp khác nhau cho mục đích hành chính và các mục đích khác.

Bao quanh thành phố là bức tường dài khoảng 4,3 km kéo dài từ phía Đông đến Tây, và 4,8 km từ phía Bắc đến Nam. Ở đây có một con đường rộng được thiết kế theo kiểu của Trung Quốc rộng khoảng 80m. Con đường rộng lớn này này chạy đến cung điện Heijo, khu vực mà vua và các văn phòng trung ương được đặt ở đó.

Thời Nara, đạo Phật được phát triển mạnh mẽ. Trong thời kỳ này, nhiều ngôi chùa lớn đã được xây dựng vì theo quan niệm của người dân, việc xây dựng những ngôi chùa lớn thờ Phật này sẽ bảo vệ được vua và nước Nhật.

Ngôi chùa cổ kính Yakushi với kiến trúc độc đáo được xây dựng vào năm 640 tại Asuka. Khi thủ đô của nước Nhật được chuyển đến Nara, ngôi chùa cũng chuyển đến đây. Ngôi chùa có bức tượng Yakushi Nyorai- một biểu tượng của người Nhật cho sức mạnh của sức khỏe và chữa bệnh.
Các di tích lịch sử của Nara cổ đại là bằng chứng đặc biệt cho sự phát triển của kiến trúc và nghệ thuật Nhật Bản và minh họa một cách sinh động một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển văn hóa và chính trị của Nhật Bản. Năm 1998, UNESCO liệt kê các công trình lịch sử của Nara cổ là Di sản văn hóa của nhân loại.
Nguồn: ngaynay.vn
Làng xã - đơn vị cơ sở nền tảng kinh tế - xã hội - văn hóa thời Trần đã từng được nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp dưới nhiều góc độ và vấn đề liên quan khác nhau, chẳng hạn như: Làng xã trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên của Phùng Văn Cường. Mỹ thuật làng xã thời Trần của Chu Quang Chứ trong Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, 1977, tập I; Chế độ quân chủ quý tộc đời Trần của Nguyễn Hồng Phong, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4-1986; hoặc Chế độ đất công làng xã, trong Chế độ ruộng đất ở Việt Nam, tập I của Trương Hữu Quýnh năm 1982. Thái ấp - điền trang thời Trần (thế kỷ XIII- XIV) của Nguyễn Thị Phương Chi, xuất bản năm 2002... Nhìn chung, những công trình trên đã đưa ra cách nhìn nhận khác nhau và cung cấp thông tin hữu ích giúp hiểu biết nhiều hơn mặt này hay mặt khác về làng xã thời Trần.
Vượt qua “thời gian chiêm bao” mà tư duy con người còn chìm trong không gian hoang dã với hiện tượng thờ các lực lượng "hồn nhiên" như cây cỏ, đất đá, một khúc của ngã ba sông,... để rồi con người tiến lên xây dựng một tổ chức mang tính xã hội. Trên đường đi đó dần dần con người định hình nhân dạng cho các thần linh mà trong đó một vị thần linh cơ bản đầu tiên là nữ thần. Có thể tin được điều đó, bởi trong buổi hồng hoang, sự phân công lao động sớm nhất là phân công lao động nam - nữ. Nam thì săn bắn/bắt, công việc này bấp bênh, hôm được hôm không, thiếu tính chất thường xuyên để đảm bảo cuộc sống. Còn nữ giới với hái lượm rau củ trong rừng, đó là lương thực cơ bản để nuôi sống gia đình. Mặc nhiên vai trò của nữ trở nên cực kỳ quan trọng, do đó đã dẫn đến một hiện tượng khi nhân dạng hóa thần linh thì vị thần đó tất yếu mang dạng nữ. Khởi đầu, người Việt trông cậy vào của cải được thu lượm từ rừng nên người ta tôn trọng thần rừng, hội các điều kiện lại thì vị thần nhân dạng đầu tiên có thể nghĩ được là bà chúa rừng với nhiều chức năng khác nhau - Trước hết là thần của cải - Trong quá trình tồn tại, người ta hội dần vào bà nhiều chức năng, đầu tiên là bà “mẹ Thiêng liêng" với quyền năng vô bờ bến; một bà “mẹ Thế gian”, bởi người ta coi từ bà mà muôn loài nảy sinh và phát triển. Đồng thời bà là một thần linh đứng đầu bách thần nên bà còn mang tư cách là một đấng “vô cùng” - người Việt đã dần hội tất cả những gì linh thiêng liên quan vào chính bà Đông Cuông - một bà mẹ vũ trụ khởi nguyên của người Việt.
Trong kho thư tịch cổ viết về Thăng Long - Hà Nội hiện còn một mảng tư liệu đặc biệt quý giá dùng để nghiên cứu địa lý lịch sử, diên cách địa danh và nhiều mặt khác. Đó là các sách địa chí.