Đàn Xã Tắc là nơi thờ Thần Đất (Xã) và Thần Nông (Tắc). Đàn Xã Tắc được đắp 2 tầng, mặt cắt hình vuông, ngoảnh hướng Bắc. Tầng trên cùng cao 1,6m, mỗi cạnh dài 28m, mặt nền tô 5 màu (vàng ở giữa, xanh phía Đông, trắng phía Tây, đỏ phía Nam và đen phía Bắc) theo quan niệm ngũ hành. Trên nền tầng này có 32 bệ đá được sắp xếp để cắm tàn phục vụ hoạt động tế lễ. Đây là nơi đặt án thờ thần Đại Xã và thần Đại Tắc, cũng là nơi dành cho vua và các quan đại thần thực hiện các nghi lễ tế. Tầng dưới cao 1,2m, mỗi cạnh dài 70m, mặt nền trước lát gạch, hai bên có bệ cắm tàn. Cả 2 tầng này đều có lan can gạch bao xung quanh, cao khoảng 1m. Lối lên, xuống đàn được đặt ở chính giữa 4 mặt bằng cách xây dựng hệ thống bậc cấp. Lan can tầng 1 được quét màu vàng, lan can tầng 2 được quét màu đỏ.
Đàn Xã Tắc được đắp bằng đất. Đất đắp Đàn là đất sạch, được đóng góp từ tất cả các thành, dinh, trấn trong cả nước.
Xung quanh Đàn Xã Tắc có tường rào xây bằng gạch cao 1,2m theo hình chữ nhật. Chiều rộng khuôn viên Đàn Xã Tắc men theo hướng Bắc Nam, khoảng 160m. Chiều dài khuôn viên men theo hướng Đông Tây, khoảng 200m. Mặt tường phía Bắc được trổ 3 cửa, còn 3 mặt tường còn lại chỉ trổ mỗi mặt 1 cửa. Phía trước cửa tường Nam có một bình phong xây bằng gạch, dài 10m, cao 3,7m, dày 0,85m. Ở trước cửa phía Bắc có đào hồ nước hình vuông, mỗi cạnh dài 60m và được kè đá.

Hằng năm, cứ vào ngày Mậu của tháng trọng xuân và tháng trọng thu (tháng 2 và tháng 8 âm lịch), lễ tế lại được đích thân nhà vua tổ chức và làm chủ tế ở Đàn này. Đây là những nghi lễ tế trời, đất và các bậc thần linh, cầu xin mùa màng tươi tốt, bình an, hạnh phúc cho muôn dân và sự thịnh trị của triều đình.
Theo nhà sử học, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, Đàn Xã Tắc được coi là một trong những di tích quan trọng bậc nhất của Thăng Long xưa, được lập từ thời vua Lý Thái Tông (năm 1048). Từ sau thời vua Lê Chiêu Thống (năm 1788) Đàn Xã Tắc ở Thăng Long – Hà Nội hoàn toàn bị mất dấu. Đến năm 2006, sau hơn 200 năm bị vùi lấp, Đàn Xã Tắc Thăng Long – Hà Nội mới được phát lộ.
Do là nơi thực hiện các nghi lễ tế trời, đất do nhà vua thực hiện, nên ở mỗi nơi được đặt là kinh đô đều có 1 Đàn Xã Tắc như thế. Hiện nay, ở Huế và Thanh Hóa vẫn còn lưu giữ được 2 Đàn Xã Tắc tương đối nguyên vẹn.
Nguyễn Tào
Xem thêm: Abyaneh – Ngôi làng cổ nhất Iran
Nếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền có nguồn gốc dân gian - Hát cửa đình phát tán thành một thành phần cổ truyền chuyên nghiệp là hát Ả đào vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế...
Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm Pa. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam. Thông thường người ta hay so sánh Thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan (Myanmar), Wat Phou (Lào), Angkor Wat (Campuchia) và Prasat Hin Phimai (Thái Lan). Từ năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tân thời và hiện đại tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.
Ở xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, trên dãy núi Hồng Lĩnh, có một ngôi chùa cổ tên gọi Hương Tích, một danh lam nổi tiếng, có lịch sử ra đời khá sớm được chọn làm di tích tiêu biểu của quê hương Hà Tĩnh (núi Hồng - sông La), hình tượng của chùa đã được chạm khắc lên "Anh Đỉnh" một trong 9 đỉnh đồng lớn ở Cố đô Huế, vào năm Minh Mạng thứ 17 (1835) thời nhà Nguyễn.