Mở đầu(*)
Địa danh gắn liền với quá trình lịch sử, truyền thống văn hóa, nguồn gốc cư dân của từng địa phương. Qua nghiên cứu địa danh, chúng ta có được nguồn tư liệu gốc để nghiên cứu lịch sử hình thành, biến đổi và phát triển của mỗi địa phương, của từng tộc người. Nghiên cứu những yếu tố nội sinh và ngoại lai tác động đến việc thay đổi địa danh, từ đó đưa đến cái nhìn chân thực về bối cảnh phát triển của từng khu vực. Nghiên cứu địa danh trong trường hợp Việt Nam - một đất nước có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, có nhiều dân tộc khác biệt nhau hoàn toàn về bản sắc cùng sinh tồn lại càng có ý nghĩa.
* Nguồn thư tịch ghi bằng chữ Hán, chữ Nôm là căn cứ quan trọng để nghiên cứu lịch sử nông thôn Việt Nam nói chung và địa danh học nói riêng. Trong nguồn thư tịch đó, địa danh được ghi chép trong các công trình khảo cứu về địa lí. Loại thư tịch này chia làm 02 loại:
- Sách địa phương chí. Trong các sách địa phương chí, địa danh được ghi lẫn trong các đoạn văn, các câu thơ. Loại này gồm sách ghi chép địa danh của toàn quốc và sách ghi chép địa danh của từng tỉnh, thành. Ví dụ văn bản Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí ghi chép tên gọi các phủ huyện, thành cổ, núi sông bến đò, cầu cống, chợ, đê điều… các danh lam thắng tích như đền, chùa, đình, miếu, lăng tẩm, thành cổ, dinh cổ… của toàn tỉnh Bắc Ninh; văn bản Bắc thành địa dư chí lục ghi chép địa lý thành Thăng Long và 11 trấn thuộc Bắc thành đời Gia Long, gồm các mặt: diên cách thành trì, bờ cõi, số thôn xã, sông núi, miếu mạo, đền chùa… tên các thành và trấn. Thuộc vào loại sách địa phương chí còn phải kể đến các văn bản ghi chép theo loại hình di tích, như Thông quốc diên hái chử ghi chép toàn bộ tên gọi các bến đò, cửa khẩu của cả nước…
- Các tập bản đồ, gồm bản đồ của toàn quốc và của từng địa phương. Loại này, thông tin chính nằm ở hình vẽ bản đồ, địa danh được ghi chép trong đó chỉ mang tính chất chú thích kèm theo các hình vẽ, bản đồ đã nêu. Ví dụ các văn bản Thiên hạ bản đồ, An Nam thông quốc bản đồ, An Nam quốc quý địa… vẽ bản đồ các tỉnh thành (ghi kèm tên gọi), hình thế các ngôi đất quý của cả nước…
Bên cạnh các thư tịch ghi chép khá tập trung về địa danh nêu trên, còn phải kể đến các ghi chép tản mạn về địa danh trong các tập thơ đề vịnh phong cảnh, các tập thơ ghi lại địa danh nơi sứ thần đi qua trên đường công cán sang Trung Quốc, sang Pháp như An Nam tạp chí (gồm 2 bài phú của Trần Huy Phác về địa lý, lịch sử… đền miếu của tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Cao Bằng), Bắc sứ đồ tập (tập bẢn đồ vẽ đường đi sứ Trung Quốc của đoàn sứ giả Việt Nam, có ghi lại địa danh trên đường đi sứ), Tây hành nhật trình quốc âm, Tây hành nhật trình diễn âm, Tây phù nhật kí (ghi lại địa danh trên đường công cán sang Pháp của các sứ thần)…
* Các cuốn sách nêu trên đơn thuần chỉ là các cuốn sách ghi chép về địa danh. Công trình thực sự bắt tay vào nghiên cứu về địa danh, địa lí (trên phạm vi toàn quốc) sớm nhất là Ô châu cận lục (1548-1553), tiếp sau là Phủ biên tạp lục (1776), Nhất thống dư địa chí (1806), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí(1860), Đại Nam dư địa chí ước biên (1905), Đại Nam nhất thống chí.
Các cuốn chuyên khảo cứu về địa lí của từng địa phương như Đại Nam nhất thống chí lược biên (địa lí giản lược về kinh đô Huế), Hải Dương đỊa dư (địa lí tỉnh Hải Dương) cũng đã được xuất bản. Ở các cuốn sách nêu trên, địa danh được nhắc đến khi khảo cứu về địa lí của địa phương. Trong số các công trình khảo cứu về địa lí, có Nam Việt dư địa chí (1889-1916) đề cập nhiều đến vấn đề địa danh, gồm: ghi lại những thay đổi về đơn vị hành chính, tên các tỉnh, phủ, huyện (có ghi tên gọi cũ) của Nam kì, Trung kì và Bắc kì.
Khác với các công trình khảo cứu địa lí nêu trên, đầu thế kỉ XIX bắt đầu xuất hiện các công trình khảo cứu chuyên biệt về địa danh, như Các trấn tổng xã danh bị lãm (1802 - 1819), Danh mục các làng xã Bắc kì (1928)(1) và Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã về làng xã Bắc kì (1999)(2). Đây là 3 bộ sách quan trọng để nghiên cứu địa danh cổ. Trong 3 bộ sách nêu trên, Các trấn tổng xã danh bị lãm (CTTXDBL) ghi lại địa danh của các đơn vị hành chính từ cấp cao đến cấp thấp (địa danh cấp thấp, trong nhiều trường hợp được ghi chép bằng văn tự dân tộc), Danh mục các làng xã Bắc kì chỉ ghi lại địa danh từ cấp xã trở lên. Về nguồn tư liệu, Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc kì căn bản dừng lại ở tư liệu mà Danh mục các làng xã Bắc kì đã sử dụng. Có thể thấy rõ, để đi tìm nguồn tư liệu gốc làm căn cứ cho việc nghiên cứu địa danh, và để khảo cứu địa danh thuần Việt, chúng ta không thể bỏ qua CTTXDBL
CTTXDBL ghi lại địa danh thời Gia Long, gồm tên gọi các phủ, huyện, châu, tổng, xã, thôn, xóm, vạn, sách, trang, phường, giáp, trại thuộc 15 trấn, xứ và đạo kể từ Đèo Ngang trở ra Bắc hồi đầu thế kỷ XIX.
CTTXDBL đã ghi lại khá nhiều các địa danh thuần Việt (Địa danh thuần Việt là loại địa danh được ghi bằng chữ Nôm - dạng văn tự khối vuông dùng để ghi âm tiếng Việt). Khảo cứu địa danh thuần Việt được ghi trong CTTXDBL, cho phép ta có thể khảo cứu các địa danh cấp thấp (làm cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề về làng xã cổ truyền), khảo cứu về ý nghĩa của địa danh, các yếu tố tâm lí nảy sinh trong quá trình định danh và các yếu tố liên quan đến địa danh (như vấn đề dân tộc, ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai trong quá trình định danh…) Qua đó, làm rõ đặc điểm cấu tạo của địa danh, các phương thức đặt địa danh cũng như ý nghĩa, nguồn gốc của từng địa danh, góp phần phục nguyên văn hoá bản địa.
Trong phần này, chúng tôi sẽ khảo cứu về phân bố và cấu tạo (xét về mặt văn tự) của các địa danh thuần Việt trong CTTXDBL.
Mỗi địa danh gắn chặt với một đối tượng cụ thể, ở một thời điểm nhất định: địa danh gắn liền với quá trình lao động sản xuất, lịch sử, xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tư duy… của từng cộng đồng, từng vùng miền. Qua địa danh chúng ta có thể thấy rõ phần nào nền văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cộng đồng, của từng vùng miền. Bởi vậy, địa danh là một lĩnh vực ngày càng được các nhà nghiên cứu (ngôn ngữ học, văn hoá học, dân tộc học, lịch sử học) quan tâm. Đã có khá nhiều các bài viết, luận án nghiên cứu về địa danh. Tuy nhiên, các khảo cứu đó chỉ căn cứ vào nguồn cứ liệu tiếng Việt hiện đại, rất thiếu các công trình đi vào địa danh cổ từ các cứ liệu Hán Nôm.
Nguồn thư tịch Hán Nôm là căn cứ tin cậy để tiến hành khảo cứu các địa danh cổ. Trong số các tư liệu Hán Nôm khảo cứu về địa danh, CTTXDBL(3) là bộ sách ghi chép một cách tập trung, hệ thống, chi tiết và đầy đủ nhất về các địa danh Bắc bộ của Việt Nam. Qua thống kê, CTTXDBL có 567 địa danh được ghi lại bằng chữ Nôm. Các địa danh ghi bằng chữ Nôm (địa danh thuần Việt) được chúng tôi lựa chọn để khảo cứu gồm các địa danh được ghi bằng chữ Nôm Kinh(4) (gồm: các chữ Nôm có cấu trúc nội tại và các chữ Nôm mượn nguyên hình thể chữ Hán, đọc theo trật tự cú pháp tiếng Việt); các địa danh ghi bằng chữ Nôm của các dân tộc anh em sinh sống ở khu vực vùng đồi núi phía Bắc và dải Trung bộ của Việt Nam (Nôm Tày, Nôm Dao, Thái(5)) cũng là đối tượng khảo cứu của bài viết này.
Địa danh thuần Việt trong CTTXDBL được dùng ghi tên gọi riêng của các đơn vị hành chính (tổng, phủ, huyện, xã, thôn), tên gọi riêng của các vùng miền có loại địa hình (bến, động, lũng…), tên gọi riêng của các khu đất giành để sinh hoạt chung trong cộng đồng dân cư (quán, chợ). Tuy nhiên, tên gọi của các vùng miền có loại địa hình và tên gọi riêng của các khu đất giành cho sinh hoạt chung, trong một số trường hợp, được chúng tôi nhận định như một đơn vị hành chính. Có thể tìm hiểu nhận định trên qua phân tích cứ liệu sau:
Bến vốn là từ dùng chỉ loại địa hình. Bến được dùng để chỉ tên thôn (vì thôn đó có bến sông → thôn Bến), chỉ tên xã (trong kết hợp “bến” với 01 yếu tố có tác dụng khu biệt nghĩa → xã Bến Chuông). Tuy nhiên lại thấy có bến Cầu Vu. “Bến” trong “bến Cầu Vu” không giống với “bến” trong “thôn Bến” mà thật sự đóng vai trò như “xã” trong “xã Bến Chuông”, “thôn” trong “thôn Bến”. Cũng vậy, địa danh chợ Nước Hai và trại Nước Hai, thì “chợ” tương đương với “trại”. Từ các cứ liệu nêu trên cho thấy: “bến”, “chợ” có lúc đã được dùng tương đương như một đơn vị hành chính, giống như xã, thôn và trại.
Trong CTTXDBL, các địa danh dùng để ghi tên gọi cho các đơn vị hành chính cấp xã, thôn chiếm tỷ lệ khá cao. Tên riêng của các trại, các động (đơn vị hành chính dùng chỉ các khu đất ở miền núi) có số lượng đáng kể. Kết quả thống kê cho thấy: 174 tên xã được ghi bằng chữ Nôm, chiếm tỷ lệ 30,68 %; 156 tên thôn được ghi bằng chữ Nôm, chiếm tỷ lệ 27,5 %; 68 tên trại được ghi bằng chữ Nôm, chiếm tỷ lệ 11,99 %; 39 tên động được ghi bằng chữ Nôm, chiếm tỷ lệ 6,87 %, 27 tên phường được ghi bằng chữ Nôm chiếm tỉ lệ 4,76 %, 21 tên trang được ghi bằng chữ Nôm chiếm tỉ lệ 3,70 % và 20 tên tổng được ghi bằng chữ Nôm chiếm tỉ lệ 3,52 %. Một số đơn vị hành chính có số lượng tên Nôm dao động từ 10 đến 20 đơn vị, gồm: 18 tên phố (3,17 %), 11 tên vạn (1,94 %) và 10 tên sách (1,76 %). Đặc biệt có một số đơn vị hành chính có số lượng tên gọi Nôm cực ít như: có 5 tên giáp (0,88 %), 4 tên xóm (0,70 %), 4 tên chợ (0,70 %) và 2 tên phủ (0,35 %) được ghi bằng chữ Nôm. Ngoài ra còn phải kể đến các đơn vị hành chính chỉ có 1 tên gọi Nôm (chiếm 0,17 %), gồm các đơn vị hành chính cấp huyện, trấn, ấp, đội, quán, sở, lũng, tộc và bến. Kết quả thống kê cho thấy: đơn vị hành chính cấp xã, thôn, trong nhiều trường hợp, dùng chữ Nôm để ghi lại. Điều này có nguyên do từ thực tế: xã thôn là đơn vị hành chính cấp thấp, nơi cư dân nông thôn thường xuyên phải thực hiện các giao dịch dân sự. Vì vậy các địa danh này phần nhiều được định danh bằng ngôn ngữ, văn tự dân tộc. Điều này cũng cho thấy vai trò, ảnh hưởng của chữ Nôm trong đời sống xã hội của người Việt.
Khảo cứu đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã, thôn ở nông thôn và phố, phường ở thành phố thị trấn) đã cho thấy sự phân bố cư dân ở Việt Nam vào thế kỉ XIX rằng Việt Nam khi đó còn là nước nông nghiệp lạc hậu, cư dân nông thôn khá đông đúc, chiếm phần áp đảo so với cư dân thành phố, thị trấn.
Trong phần này, chúng tôi tiến hành khảo cứu địa danh thuần Việt (được ghi trong CTTXDBL) thể hiện qua văn tự. Để ghi lại địa danh thuần Việt, có thể dùng chữ Nôm Kinh hoặc chữ Nôm dân tộc. Điều đặc biệt là có địa danh chỉ dùng một dạng văn tự để ghi lại, tuy nhiên cũng không ít địa danh được ghi bằng 2 dạng văn tự khác nhau. Xét trên phương diện ngôn ngữ văn tự, có thể chia thành 2 nhóm chính như sau:
* Với các địa danh 1 âm tiết, ngôn ngữ sử dụng hiển nhiên chỉ có một dạng duy nhất (đơn nhất về văn tự). Ví dụ:
Các địa danh ghi bằng chữ Nôm Kinh: Bãi 罢, Bến ?, Cồn ?, Đống 棟, Mả ?, Ngòi ?,Non ?, Nước 渃, Núi ?, Ruộng ?; Xóm ?, Làng 廊,Bừa耙, Ngói ?, Gà , Hến 䘆, Voi 㺔, Sang ?, Sống ?.
Các địa danh ghi bằng chữ Nôm dân tộc, như: Lũng 陇, Rào @
* Với địa danh đa âm tiết, trong phần khảo cứu này, chúng tôi bước đầu tập trung vào nhóm địa danh 2 âm tiết. Hiện tượng thuần nhất về ngôn ngữ văn tự thể hiện ở việc cả 2 yếu tố cấu thành địa danh đều được ghi bằng chữ Nôm Kinh hoặc đều được ghi bằng chữ Nôm dân tộc. Sơ đồ cấu tạo của loại địa danh này như sau:
- CHỮ NÔM KINH + CHỮ NÔM KINH: trong các địa danh thôn Bến Đá ??, trang Trại Sẻ 寨?, thôn Cầu Cháy 梂 ?, xã Bãi Ruộng ??, trang Bến Bãi ??, trại Cây Gạo 核?, thôn Bãi Đồng 罢同, thôn Bãi Giữa 沛 ?, trại Cây Dừa 核椰… cả 2 yếu tố cấu thành địa danh đều được ghi bằng chữ Nôm Kinh.
- CHỮ NÔM DÂN TỘC + CHỮ NÔM DÂN TỘC. Ví dụ: hai yếu tố cấu thành của các địa danh phố Nà Phja 那岂, trại Nà Pja那 把, trại Phja Hỏang 岂 恍, trại Pé Luông ? 篭… đều được ghi bằng chữ Nôm Tày.
* CHỮ NÔM KINH + CHỮ NÔM DÂN TỘC
Ví dụ 1: trong kết cấu địa danh trại Khuổi Tôm ??(trấn Cao Bằng), có “khuổi” (Nôm Tày, nghĩa “suối”) kết hợp với “tôm” (Nôm Kinh)
Ví dụ 2: trong kết cấu địa danh xã Đồng Na同那(xứ Thái Nguyên) và địa danh thôn Ruộng Na ?那(trấn Nghệ An) đều có na (chữ Thái) kết hợp với đồng (hoặc ruộng) (chữ Nôm Kinh).
* CHỮ HÁN + CHỮ NÔM KINH
Trong kết cấu địa danh thôn Phú Ruộng 富?, có phú (chữ Hán nghĩa “giàu có”) kết hợp với ruộng (chữ Nôm Kinh); kết cấu địa danh: sách Kim Đèn金 畑, có kim (chữ Hán nghĩa “vàng bạc”) kết hợp với đèn (chữ Nôm Kinh). Hai địa danh này đều có cấu trúc theo trật tự từ pháp tiếng Hán (định ngữ đứng trước trung tâm ngữ), “phú” và “kim” trong trường hợp này không phải là chữ Nôm (thuộc tiểu loại vay mượn), đây là một chữ Hán.
* CHỮ NÔM DÂN TỘC + CHỮ HÁN:
Ở vùng miền núi phía Bắc, nhân dân hai nước Việt - Trung có quan hệ láng giềng, thăm hỏi, thông thương hàng ngày. Các ghi chép về địa danh ở vùng biên đã phản ánh mối quan hệ gần gũi đó: bên cạnh các địa danh ghi bằng văn tự dân tộc, không ít các địa danh được cấu tạo bởi 2 yếu tố: chữ Hán + chữ dân tộc. Ví dụ các địa danh trại Nà Điền 那田, động Khuổi Đạt ?達và động Khuổi Trạng ?状(trấn Cao Bằng)… có nà, khuổi (chữ Nôm Tày) kết hợp với điền, đạt hoặc trạng đều là các chữ Hán.
Có thể thấy, mỗi địa danh ra đời gắn với lịch sử, xã hội, địa lí, dân cư, ngôn ngữ của một dân tộc, một vùng đất nhất định: các địa danh được ghi bằng 1 chữ Nôm Kinh (hoặc bằng chữ Nôm dân tộc) kết hợp với 1 chữ Hán đã thể hiện mối quan hệ gắn bó về lịch sử lâu dài trong quá trình tiếp xúc với văn hoá Hán của cộng đồng cư dân Việt, thể hiện tình hình địa lí, cư dân của các dân tộc miền núi phía Bắc nơi có đường biên và có hoạt động thông thương lâu đời với nước láng giềng Trung Quốc. Các địa danh được ghi bằng 1 chữ Nôm Kinh kết hợp 1chữ Nôm dân tộc đã thể hiện tình hình cộng cự, tinh thần đoàn kết dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cùng chung tay xây dựng thôn xóm, bản làng.
THAY LỜI KẾT
Địa danh ra đời trong một thời điểm lịch sử nhất định, là tư liệu đáng quan tâm của ngôn ngữ học lịch sử. Địa danh đã trở thành “tấm bia” bằng ngôn ngữ học về thời đại mà nó ra đời: các tên gọi “Chợ Lớn” ra đời gắn liền với sự phát triển về thương mại của một khu phố thị sầm uất nhất vùng Nam Bộ đầu thế kỷ XIX; tên gọi “Lũy Thầy” (Đồng Hới, Quảng Bình) ra đời gắn liền với tên tuổi của vị quan của Chúa Nguyễn là Đào Duy Từ, người đã thiết kế nên thành lũy này thời thế kỷ XVII, XVIII. Với tư cách là một lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ học, địa danh học phải được nghiên cứu theo quan điểm của ngôn ngữ học, nghĩa là phải nghiên cứu cả đặc điểm cấu tạo của địa danh, các phương thức đặt địa danh lẫn ý nghĩa, nguồn gốc của địa danh. Có nghiên cứu một cách toàn diện như thế, địa danh học mới thực sự là một lĩnh vực nghiên cứu đầy hấp dẫn, thú vị, đem lại nhiều lợi ích thiết thực đối với nhiều ngành khoa học khác. Với ý nghĩa đó, CTTXDBL thực sự trở thành nguồn tư liệu quý giá để nghiên cứu địa danh cổ và các vấn đề liên quan đến làng xã cổ truyền Việt Nam./.
Chú thích:
(*) Trân trọng cảm ơn Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) đã giúp tôi thực hiện bài viết này
(1) Tên tiếng Pháp Nomenclature des Communes du Tonkin của Ngô Vi Liễn do nhà in Lê Văn Tân phát hành năm 1928. Sách được viết bằng chữ Pháp (tên phố ở Hà Nội), chữ Việt (tên làng, phủ, huyện, châu, tỉnh và thành phố) và chữ Hán (tên làng).
(2) Tên tiếng Pháp Répertoire des toponymes et des archives villageoises du Bắc kì. Tác giả Vũ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên và Philippe Papin biên tập
(3) Sách được biên soạn vào thời Nguyễn, khoảng từ năm 1810 - 1819. Sách được tập thể tác giả Dương Thị The và Phạm Thị Thoa biên dịch ra tiếng Việt, mang tên: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX (chi tiết xem tài liệu tham khảo).
(4) Các khảo cứu về chữ Nôm đều dùng khái niệm “chữ Nôm Việt” để chỉ chữ Nôm của dân tộc Kinh, một dân tộc chiếm đại đa số trong 54 dân tộc anh em sống trên dải đất Việt. Trong bài khảo này, chúng tôi dùng nhất quán là chữ Nôm Kinh, để phân biệt với chữ Nôm dân tộc (Nôm Tày, Nôm Dao, Thái).
(5) Trong bài khảo này, nhất quán dùng khái niệm “chữ Nôm dân tộc” để chỉ Nôm Tày, Nôm Dao, Thái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ 19, Dương Thị The - Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Nxb. KHXH, H. 1981.
2. Ngô Vi Liễn, Danh mục các làng xã Bắc kì (1928) (tên tiếng Pháp Nomenclature des Communes du Tonkin), in trong Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kì, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1999.
3. Vũ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên và Philippe Papin, Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc kì (tên tiếng Pháp Répertoire des toponymes et des archives villageoises du Bắc kì), Viện Viễn đông Bác cổ - Nxb. Văn hóa - Thông tin - Cục Lưu trữ nhà nước. H. 1999.
4. Địa danh và những vấn đề lịch sử - văn hóa của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái Việt Nam, Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ V, Nxb. Thế giới, H. 2009.
5. 各鎮總社名備覽, kí hiệu A.570/1-2, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
6. Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo - Hoàng Chí, Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, H.2006.
Xem thêm: Biên soạn sách địa chí và xây dựng tài liệu địa chí ở Việt Nam
Được hình thành cách đây 2.500 năm, nằm trên độ cao 2.000m so với mực nước biển, cách thủ đô Tehran khoảng 300km, ngôi làng cổ Abyaneh được xây bằng gạch bùn và đất sét. Điều đặc biệt là cả ngôi làng đều có màu đỏ nên còn được gọi là làng Đỏ. Những người dân sinh sống trong ngôi làng này rất hiền hòa, hiếu khách và mặc trang phục đặc trưng theo Hồi giáo và Bái hỏa giáo.
Nếu như Đồ Sơn, Cát Bà, Vịnh Lan Hạ từ lâu đã trở thành những địa chỉ nổi tiếng trên bản đồ du lịch Việt Nam, thân thuộc với khách du lịch trong nước và quốc tế, thì Bạch Long Vĩ, đến nay, vẫn là một hòn đảo hoang sơ với rất nhiều những điều thú vị chưa được khám phá. Với vị trí địa lý quan trọng, là “phên dậu tiền tiêu” biên giới trên vùng biển vịnh Bắc Bộ của quốc gia, Bạch Long Vĩ không đơn thuần là một điểm tham quan du lịch. Bạch Long Vĩ không phải là nơi dễ đến, không phải cứ khoác ba lô lên đường là được tham quan một điểm đến mới lạ. Hành trình từ đất liền ra đảo với 6 -7 giờ lênh đênh trên biển, đối mặt với những cơn say sóng dữ dội, đối mặt với những khắc nghiệt từ thời tiết, từ thiên nhiên vẫn luôn là thử thách mà không phải ai cũng dũng cảm đối mặt. Nên ngay cả với những người con đất Cảng, Bạch Long Vĩ vẫn ẩn chứa những điều bí ẩn và kỳ diệu, thôi thúc sự khám phá, chinh phục của những người yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc và đau đáu với mảnh đất tiền tiêu của Tổ quốc mình.
(Consonkiepbac.org.vn) - Khi Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi bị gièm pha phải về ở ẩn tại Côn Sơn nhưng tấm lòng ông vẫn không quên việc nước. Sau khi Lê Thái Tông lên ngôi, ông lại được mời ra làm quan và được giao viết bộ Quốc thư bảo huấn, trong đó có Dư địa chí như là cuốn sách giáo khoa nhằm dạy cho nhà vua hiểu biết về đất nước, con người và các đặc sản của từng địa phương. Sách soạn xong, Nguyễn Trãi dâng lên, nhà vua rất tâm đắc, sai thợ khắc ván in để phổ biến.