Trung tâm khảo cứu và biên soạn
Địa chí Việt Nam
Chào mừng đến với website Trung tâm khảo cứu và biên soạn Địa chí Việt Nam.

Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm - kiệt tác mĩ thuật khắc gỗ truyền thống

27/01/2024167

Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) sở hữu di sản văn hóa đặc biệt quý giá là kho mộc bản kinh Phật với hơn ba nghìn ván khắc, một trong những kho tư liệu cổ xưa nhất của dân tộc. Ngày 16.5.2012, với những giá trị nổi bật, trội vượt và tiêu biểu trên nhiều phương diện, mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc Chương trình "Kí ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương".

 

Trung tâm Phật giáo thời Trần, chốn tổ mãi mãi tôn nghiêm

Chùa Vĩnh Nghiêm là một "đại danh lam cổ tự", mang một vị trí đặc biệt trong lịch sử, văn hóa Phật giáo Việt Nam. Chùa Vĩnh Nghiêm là một trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng đồ, định chức danh cho các tăng sĩ thời Trần; là chốn tổ cho cả nước, nơi phát tích và thờ phụng Trúc Lâm Tam Tổ: Trần Nhân Tông (1258 - 1308), Pháp Loa (1284 - 1330) và Huyền Quang (1254 - 1334), là những nhà chân tu đã có công khai sáng một dòng thiền Việt - Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Chùa Vĩnh Nghiêm có tên Nôm là chùa Đức La nằm ở thôn Quốc Khánh, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang do tam tổ Trúc Lâm xây dựng thành thiền viện, chốn tùng lâm đào luyện tăng đồ từ cuối thế kỉ XIII và đến nay vẫn giữ vai trò là chốn tổ.

Chùa tọa lạc ở ngã ba sông Lục Nam và sông Thương - còn gọi là ngã ba Phượng Nhãn (ngã ba mắt Phượng). Người xưa mô tả trong Bia trùng tu chùa Vĩnh Nghiêm, khắc năm 1606 rằng: “Chùa Vĩnh Nghiêm là một thắng cảnh cổ. Trước mặt bên trái thì có Xương Giang, Nguyệt Giang, Đức Giang. Đức Giang chẽ nhánh hội vào Lục Đầu Giang mênh mang uốn khúc đưa thuyền từ bi cứu vớt chúng sinh. Đằng sau mé phải thì có Lạng Sơn, Phượng Sơn. Hình Sơn, Quả Sơn chập trùng muôn lớp quanh co ôm ấp sánh với cảnh Phật Bổ Đà... phong cảnh nơi đây thực là kỳ diệu. Thực là một danh lam đứng đầu thiên hạ".

Theo nguồn tư liệu Hán - Nôm hiện lưu giữ tại đây cho biết, chùa Vĩnh Nghiêm cổ kính và tĩnh lặng được mở mang xây dựng trên nền móng của ngôi chùa nhỏ có từ thời Lý (thế kỉ XI - XIII) mang tên chùa Chúc Thánh. Đến thời Trần, Phật hoàng Trần Nhân Tông cho mở mang xây dựng, đổi là chùa Vĩnh Nghiêm (với ý nghĩa là nơi mãi mãi tôn nghiêm).

Tháng 4 năm 1308, Trần Nhân Tông đích thân tới chùa Vĩnh Nghiêm chủ trì giảng Truyền Đăng Lục, sai quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho chư tăng kiết hạ tại đây và thống nhất Giáo hội Phật giáo thời Trần. Sách Tam Tổ Thực Lục cho biết: Ngày mồng Một tháng Giêng, năm Mậu Thân (năm 1308) Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sai sư Pháp Loa nhận chức trụ trì để nối dòng pháp tại chùa Báo Ân, huyện Siêu Loại. Tháng tư, Điều Ngự đến kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang, giảng Truyền Đăng Lục, lại sai Pháp Loa giữ chức trụ trì, bảo Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp hoa cho đại chúng.

Tháng 9 năm 1313, Pháp Loa phụng chiếu đến trì trú tại chùa Vĩnh Nghiêm, giữ vai trò đứng ra thành lập Trụ sở của Trung ương Giáo hội Phật giáo Đại Việt để phát triển nền đạo nước nhà. GS Ngô Đức Thọ cho rằng: "Từ khi Pháp Loa tôn giả đến trụ trì, chùa Vĩnh Nghiêm là một trung tâm Phật giáo có danh tiếng của giáo hội Trúc Lâm".

Trúc Lâm đệ nhị Tổ Pháp Loa đã biến ngôi chùa Vĩnh Nghiêm thành trụ sở Trung ương của Giáo hội Trúc Lâm, chứa đủ hồ sơ của tăng ni cả nước. Từ thời điểm này chùa Vĩnh Nghiêm lại có thêm một vai trò nữa, đó là nơi quy tụ những vị cao tăng trong chốn thiền môn, điều hành bộ máy hoạt động của Giáo hội đối với tăng ni và phật tử. Trong thời gian trụ trì tại chùa Vĩnh Nghiêm, Pháp Loa đã cho xây dựng quy chế chức vị sư tăng, tổ chức việc san khắc, in ấn các kinh sách Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm - Di sản tư liệu thế giới

Ngoài những nét kiến trúc độc đáo, chùa Vĩnh Nghiêm hiện còn lưu giữ 3.050 mộc bản có giá trị trên nhiều lĩnh vực. Mộc bản là những văn bản chữ Hán - Nôm được khắc ngược trên gỗ, từ đó để in ra thành các cuốn sách. Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm nhìn từ góc độ mĩ thuật truyền thống như một tác phẩm mĩ thuật đồ họa khắc gỗ độc lập, chứ không chỉ là một bản san khắc chữ khô khan theo cách thức thủ công khi phương tiện khoa học kĩ thuật thời bấy giờ chưa phát triển làm phương tiện để truyền bá Phật pháp bằng văn bản tới nhiều người.

Nhận diện từ góc độ mĩ thuật tạo hình, mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm phân chia thành ba dạng bản khắc chủ yếu. Dạng thứ nhất gồm những bản khắc Kinh Luật, có khung viền biên quanh lề trang sách. Dạng biểu hiện này có vẻ đẹp thẩm mĩ thông qua kiểu chữ, bố cục khi mau, lúc thưa tạo khoảng nghỉ mắt trong một bố cục chật chội, vẻ đẹp của nét chữ qua bàn tay khắc tài hoa tinh tế của nghệ nhân là ngôn ngữ nghệ thuật đồ họa khắc gỗ.

Dạng thứ hai gồm những bản khắc có phần chữ xen họa đồ, trên cùng một bề mặt gồm cả phần chữ xen thêm những bức họa đồ minh họa hình người. Nghệ thuật đồ họa tạo hình đóng vai trò chủ đạo. Lối bố cục chặt chẽ, hài hòa giữa chữ và hình với sự tài khéo thể hiện tinh thần trên nét mặt thanh thoát, nhẹ nhàng, chứa đựng tính triết lí cao thâm. Mỗi mộc bản là một bức đồ họa độc lập có đủ các yếu tố về nghệ thuật của tác phẩm khắc gỗ dân gian.

Dạng thứ ba gồm những bản khắc "Lục thù", "bùa chú" dùng trong ma chay và những nghi lễ tôn giáo. Thể hiện trên bản khắc hình chữ Hán, chữ Phạn đan xem hình bát quái âm dương, hình người kì dị... tựa như một tác phẩm hội họa siêu thực. Có sự khác biệt ở nghệ thuật khắc ở dạng thứ ba với hai dạng khắc chữ ở trên: Hình họa tiết, hình chữ, hình người được khắc âm, hình nền là dương. Khi in những phần khắc âm hiện màu của giấy, còn phần dương là những phần bỏ trống không có hình là màu của mực in.

Nội dung các tài liệu mộc bản chủ yếu ghi chép kinh luật nhà Phật, lịch sử hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm, trước tác của 3 vị tổ thiền phái là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Ngoài ra còn có các tác phẩm thơ, phú, nhật kí của Mạc Đĩnh Chi và một số vị cao tăng.

Khối tài liệu mộc bản này có lượng thông tin phong phú, đa dạng về lịch sử Phật giáo, tư tưởng hành đạo, nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm, văn học, phong tục tập quán cùng sự phát triển của nghề khắc in mộc bản và nghệ thuật chạm khắc gỗ của Việt Nam. Đặc biệt, một số tài liệu mộc bản giới thiệu cách chữa bệnh bằng thuốc nam, cách châm cứu với bản sơ đồ chi tiết rõ ràng. Hiện nay, phòng mạch của nhà chùa vẫn kế thừa các bài thuốc này để chữa các bệnh về thần kinh, đau xương khớp và các bệnh về tiêu hóa.

Các sư tổ trong chùa đã huy động hàng trăm Phật tử từ các nơi về để hỗ trợ việc đốn cây, xẻ gỗ và kêu gọi các thợ giỏi trong vùng ngày đêm đục đẽo làm các tấm mộc bản. Để có được các tấm mộc bản, các sư tổ trong chùa đã thực hiện một quy trình chế biến gỗ rất nghiêm ngặt. Gỗ lọc từ thân cây thị, xẻ ra thành các kích cỡ khác nhau, không đem khắc ngay mà phải cho vào nồi đun lên bằng cỏ khô trong vòng một đêm, sáng hôm sau mới dỡ ra để khắc chữ.

Các tấm gỗ sẽ không bị cong vênh, nứt mà tạo được độ dẻo dai cho thân ván. Bên cạnh đó, các tấm Mộc bản đều có màu đen bóng do được quét lên một lớp mực đen. Lớp mực này thấm sâu vào ruột gỗ, có tác dụng chống thấm nước, ẩm mốc, mối mọt. Do đó, dù đã trải qua hàng trăm năm nhưng hầu như các tấm mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm vẫn không bị cong vênh, mối mọt, nét chữ tinh xảo.

Đại Việt sử kí toàn thư chép, năm 1295 vua Trần Anh Tông (con của vua Trần Nhân Tông) cử sứ thần sang nhà Nguyên thỉnh một ấn bản Đại Tạng Kinh mới hoàn thành năm 1294. Khi đưa về, ấn bản chính được lưu giữ ở phủ Thiên Trường (Nam Định), còn bản sao lưu tại chùa Vĩnh Nghiêm để in ấn, lưu hành nơi các chốn tổ đình chính. Sách Tam Tổ Thực Lục cho biết, năm 1308 bởi có tang lễ Phật hoàng, việc ấy kiêng lệ đến năm 1311 thì vua Trần Anh Tông ban chiếu tiếp tục ấn bản Đại Tạng Kinh.

Cần phải nói thêm tinh thần hoằng công đạo pháp Trúc Lâm thể hiện sự đồng lòng, nhiệt tình hiến tâm, sức và có cả hiến máu cho việc làm mực in kinh, cụ thể có hàng vạn tu sĩ đã hiến máu làm mực in bộ Đại Tạng Kinh. Tháng Chạp năm Kỷ Mùi (1319), đã in được trên 5.000 bản để an trí tại chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều, Vĩnh Nghiêm và Báo Ân ở Gia Lâm. Như vậy, việc khắc bản đã hoàn thành sau 24 năm, kể cả ba năm công việc bị gián đoạn, đã để lại một kho tàng di sản quý báu cho dân tộc Việt.

Nguồn: laodong.vn

Xem thêm: Vẻ đẹp tráng lệ của vườn quốc gia Yosemite – kỳ quan của nước Mỹ

Các bài viết khác

Xem thêm
Bài học về tự quản làng, xã thông qua hương ước, quy ước
Địa chí13/06/2023

Bài học về tự quản làng, xã thông qua hương ước, quy ước

Hương ước đã xuất hiện từ thời Lê Thánh Tông, nó tồn tại tương đối phổ biến trong các làng Việt ở đồng bằng trung du Bắc bộ. Đây là nguồn sử liệu quý giúp chúng ta nghiên cứu về phương thức quản lý nông thôn truyền thống khá hiệu quả của cha ông để suy nghĩ các biện pháp đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa hiện nay. Hương ước gồm các điều ước về nhiều mặt của đời sống làng xã: sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường, cơ cấu tổ chức và quan hệ xã hội, bảo vệ an ninh, thờ cúng, khuyến học, đảm bảo nghĩa vụ với Nhà nước, giữ gìn, bảo tồn văn hóa dân tộc, những quy ước đã được tuân thủ qua nhiều thế hệ để trở thành thông lệ phương hướng, luật tục của từng cộng động cư dân ở nông thôn.

Nhà thờ hồi giáo Bagerhat - Bangladesh
Tin tức khác15/04/2024

Nhà thờ hồi giáo Bagerhat - Bangladesh

Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hiệp quốc đã công nhận Nhà thờ hồi giáo Bagerhat của Bangladesh là Di sản văn hóa thế giới năm 1985.

Thánh địa Mỹ Sơn
Tin tức khác12/08/2023

Thánh địa Mỹ Sơn

Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm Pa. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam. Thông thường người ta hay so sánh Thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan (Myanmar), Wat Phou (Lào), Angkor Wat (Campuchia) và Prasat Hin Phimai (Thái Lan). Từ năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tân thời và hiện đại tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.