Trung tâm khảo cứu và biên soạn
Địa chí Việt Nam
Chào mừng đến với website Trung tâm khảo cứu và biên soạn Địa chí Việt Nam.

Cơ cấu tổ chức trong làng xã việt nam truyền thống

25/07/20237.232

Nhìn lại xuyên suốt tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam, không chỉ  mấy ngàn năm vừa qua mà còn cả trong tương lai lâu dài mãi mãi về sau của nước nhà, làng của người Việt luôn giữ một vị trí vô cùng quan trọng, là biểu hiện cho sức sống của đất nước.

Giới thiệu làng xã Việt Nam truyền thống

Nhìn lại xuyên suốt tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam, không chỉ  mấy ngàn năm vừa qua mà còn cả trong tương lai lâu dài mãi mãi về sau của nước nhà, làng của người Việt luôn giữ một vị trí vô cùng quan trọng, là biểu hiện cho sức sống của đất nước. Dựa  trên kết quả  của  một số nghiên cứu đã cho thấy, sự ra đời của Làng xã truyền thống ở Việt Nam gắn liền với quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, giai đoạn hình thành xã hội có giai cấp và Nhà nước ở Việt Nam. Từ thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên cách ngày nay khoảng 4000 năm, trên đất nước Việt Nam khi ấy đã diễn ra quá trình hình thành công xã nông thôn –  hay nói một cách khác đó là quá trình hình thành làng Việt2.

1. Một số vấn đề lý luận cơ bản

1.1. Khái niệm làng xã

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa Làng hay Làng xã gồm 2 lớp nghĩa3: Trước tiên, là một khối cư dân ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt và là một đơn vị hành chính cấp thấp nhất thời phong kiến. Bên cạnh đó, cũng có thể là những người cùng một nghề, một việc nào đó. GS.TS Ngô Đức Thịnh đã đưa ra định nghĩa về làng xã trên cơ sở nhấn mạnh nguồn gốc lịch sử: Xét về nguồn cội, làng thời phong kiến tồn tại cho tới nay là sự phát triển mở rộng của một gia đình, gia tộc4. Ngoài ra, khái niệm “làng xã” còn thường được dùng để chỉ một cộng đồng cư dân gắn bó, hoặc có gốc rễ, hay có mối liên hệ trước hết về mặt đời sống kinh tế, văn hóa với hoạt động chủ yếu là hoạt động nông nghiệp. Hay như quan điểm của tác giả Hữu Ngọc cho rằng: Làng là đơn vị cư trú cơ bản của nông thôn người Việt. Cho đến hiện tại, vẫn còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “làng xã” cũng như những đặc điểm của nó; và trong các xã hội khác nhau ở những nước Phương Đông, thì thuật ngữ này cũng được nhìn nhận ở nhiều góc độ và có những khác biệt cơ bản. Ở bài viết này, chúng tôi sẽ tiếp cận theo góc độ hiểu làng xã, là một loại hình tổ chức phổ biến, rộng rãi, nó tập hợp một cộng đồng cư dân thường trú và những cư dân này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về các vấn đề kinh tế, chính trị - xã hội; và các tổ chức làng xã đã xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử Việt Nam. 

1.2. Đặc điểm của làng xã Việt Nam truyền thống

Đặc điểm của làng xã cổ truyền là tự trị, tự quản. Nhà nước chỉ can thiệp vào làng xã trong việc thu thuế, bắt lính; xử lý những vụ án hình sự, hay những vụ tranh chấp dân sự làng không hòa giải được; can thiệp khi có dịch bệnh lớn… còn lại thuộc quyền tự trị, tự quản của các làng xã5. Hai đặc trưng cơ bản bao trùm xuyên suốt của văn hóa làng xã truyền thống Việt Nam chính là: tính cộng đồng và tính tự trị. Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước, cây đa. Bất cứ làng nào cũng có một ngôi đình bởi đó là trung tâm hành chính, nơi diễn ra mọi công việc quan trọng như hội họp, bàn việc làng, việc nước, thu sưu thuế. Sau đó, đình làng là một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức các cuộc hội hè, biểu diễn chèo, tuồng hay ăn uống… Nhưng quan trọng nhất đình làng chính là trung tâm về tôn giáo, tâm linh. Thế đình, hướng đình được xem là yếu tố quyết định đến vận mệnh của cả làng. Và cuối cùng đình làng là trung tâm tình cảm, nói đến làng người ta nghĩ ngay đến ngôi đình với nhiều tình cảm gắn bó thân thương nhất. Trong khi đó, biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao bọc quanh làng trở thành một thứ thành lũy kiên cố, bất khả xâm phạm. Lũy tre là một đặc điểm quan trọng đối với xóm làng truyền thống ở Việt Nam6.

Làng Việt được tổ chức rất chặt chẽ, không phải theo một cách mà nhiều cách, nhiều nguyên tắc khác nhau, tạo nên nhiều loại hình, nhiều cách tập hợp cộng đồng cư dân khác nhau. Về cơ bản, cơ cấu làng Việt (truyền thống và hiện đại) được biểu hiện dưới những hình thức tổ chức (liên kết, tập hợp người) sau đây7:

Một, tổ chức làng theo huyết thống (gia đình, dòng họ);  Có những làng gồm nhiều dòng họ khác nhau, tuy nhiên cũng có làng chỉ có một dòng họ và khi ấy làng là dòng họ (gia tộc) đồng nhất với nhau.

Hai, tổ chức làng theo địa vực (khu đất cư trú); Mỗi làng có một địa vực nhất định coi như không gian sinh tồn, trong đó bao gồm: khu cư trú, ruộng đất, đồi gò, núi sông, ao đầm… do cộng đồng làng hay thành viên của làng sử dụng.

Ba,  tổ chức  làng  theo  nghề  nghiệp,  sở  thích  và  lòng  tự  nguyện  (Phe  –  Hội, Phường nghề…);

Bốn, tổ chức làng theo lớp tuổi; Truyền thống nam giới. Khi đến một độ tuổi nhất định (tuổi trưởng thành) được nâng dần địa vị và phải tham gia vào các công việc chính trị của làng.

Năm, tổ chức làng theo cơ cấu hành chính.

1.3. Vai trò của làng xã

Trong lịch sử Việt Nam, làng xã đóng vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của đất nước. Việt Nam là một nước nông nghiệp, làng xã là xã hội thu nhỏ của đất nước. Làng xã chứa đựng nhiều tinh hoa của đất nước và con người Việt Nam8. Trước hết, cần nhắc lại một vài điểm đáng chú ý về vấn đề làng xã truyền thống ở Việt Nam. (1) làng xã là một cộng đồng cư trú cơ bản của con người, có nguồn gốc xuất hiện từ sớm và có vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. (2) làng xã vùa là một cộng đồng kinh tế, vừa là cộng đồng văn hóa, vừa là một đơn vị hành chính (trước cách mạng). Về vấn đề kinh tế, điểm nổi bật của làng Việt Nam truyền thống là gắn liền với sản xuất nông nghiệp. Về vấn đề văn hóa – xã hội, văn hóa làng xã không chỉ phản ánh, mà còn có mối quan hệ nhân quả với đặc điểm sinh hoạt và lịch sử cộng đồng làng. (3) về cư dân cơ cấu tổ chức. Trong đó, cư dân có cấu trúc khá phức tạp, những người có cùng một họ (hoặc nhiều họ) có tổ tiên đến cư trú khai hoang hợp thành bộ phận chính của làng. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức của làng xã truyền thống là các thiết chế có tính ổn định, bền vững cao và được chứng minh trong lịch sử. Căn cứ vào ba nội dung nói trên, có thể khái quát vai trò của làng xã trong xã hội Việt Nam truyền thống như sau:

Thứ  nhất, nó đóng vai trò  quan trọng trong việc liên kết, tập hợp  cộng đồng người có những mối liên hệ mật thiết với nhau để hình thành nên làng. Những mối liên hệ đó có thể là địa vực, nghề nghiệp, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo hay dựa trên những biến cố chính trị - lịch sử nhất định.

Thứ hai, làng xã đóng vai trò to lớn trong việc quản lý, tổ chức đời sống kinh tế, chính trị - xã hội của người dân. Trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, hương ước (của làng xã) đang tồn tại (cùng với pháp luật của Nhà nước) như là những chuẩn mực xã hội. Hương ước là văn bản quy phạm xã hội, trong đó quy định các quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân dân nhằm giữ gìn phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa trên địa bàn thôn9.

Thứ ba, là vai trò của làng xã trong việc dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Làng Việt góp phần quan trọng trong việc khẳng định chủ quyền của quốc gia, dân tộc, đơn vị chiến đấu giữ nước; đơn vị tổ chức hậu phương cơ bản; đơn vị bảo tồn, phát triển các bản sắc văn hóa dân tộc, chống lại sự đồng hóa; môi trường xã hội đào luyện những con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có tinh thần kiên cường, bất khuất. Làng Việt đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Thời kỳ chống phong kiến phương Bắc cũng như chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ xâm lược, sự đóng góp của Làng là rất lớn. Làng Việt là pháo đài chiến đấu, biểu tượng của tinh thần kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, giữ gìn non sông bờ cõi của dân tộc Việt Nam. Thực tế lịch sử hơn mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã xác nhận sự gắn bó giữa làng với nước. Không có Làng Việt thì không có quốc gia Việt Nam. Có làng mới có nước, mất làng sẽ mất nước, còn nước thì còn Làng; làng xã là một thành tố, một đỉnh của tam giác văn hóa giữ nước: Nhà – Làng – Nước10.

2. Những thiết chế trong làng xã Việt Nam truyền thống

2.1. Dòng họ

Vai trò của dòng họ:

Về mặt văn hóa tinh thần, nhờ việc tạo ra niềm cộng cảm dựa trên huyết thống, dòng họ từ xưa đến nay vẫn là một chỗ dựa vững chắc đối với mỗi cá thể trong cộng đồng. Không chỉ dừng lại ở quan niệm, việc đề cao dòng họ về phương diện văn hóa tinh thần còn được thể hiện trong các hành vi cụ thể của mỗi người, như sự tham dự của họ vào các ngày giỗ tổ, trong việc sửa sang từ đường, xây cất mồ mả tổ tiên, cưới xin, ma chay, khuyến học, khuyến tài trong dòng họ. Sự tham gia nhiệt thành và tâm huyết của người dân vào các hoạt động trên khẳng định vai trò của dòng họ vẫn còn quan trọng trong đời sống cộng đồng dân cư làng xã.

Vai trò của dòng họ không chỉ được bảo lưu bền vững ở các làng, xã sống chủ yếu bằng nông nghiệp mà còn ở cả những nơi có nghề phụ phát triển, hòa nhập và chịu tác động sâu vào nền kinh tế thị trường với quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Đó là việc duy trì các bữa ăn chung hằng ngày, việc tổ chức các ngày lễ, tết trong năm, thăm nom cha mẹ, mối quan hệ chặt chẽ giữa ông bà, cha mẹ và con cái trong phạm vi gia đình, việc liên kết làm ăn kinh tế trong dòng họ, giỗ tổ họ... Đây là những nét đẹp và biểu hiện khẳng định sức sống bền vững của dòng họ trong lối sống thôn làng của người Việt. Vai trò của dòng họ với những giá trị tốt đẹp và đặc trưng trong nếp sống không những không bị mai một mà còn thích ứng, biến đổi, tạo ra các giá trị mới và có khả năng trường tồn cùng với đời sống làng, xã Việt Nam.

Nhiệm vụ của dòng họ:

Thứ nhất, dòng họ trong việc giáo dục uống nước nhớ nguồn. Cúng tế tổ tiên kết hợp với giáo dục truyền thống dòng họ đã góp phần xây dựng nên nhiều nét đẹp của nhân cách. Uống nước nhớ nguồn là truyền thống văn hóa tốt đẹp của dòng họ Việt Nam. Dân tộc ta với “trăm họ” luôn có tâm niệm lá rụng về cội, lấy việc thờ cúng tổ tiên làm thành tín ngưỡng riêng của từng gia đình, dòng họ, tạo  nên nét độc đáo của cả dân tộc. Trong bối cảnh của sự giao thoa văn hóa hiện nay, xu hướng mất gốc đang là nguy cơ, đặc biệt là đối với một bộ phận của lớp trẻ, thì việc phục hưng của dòng họ đã có ý nghĩa lớn chống lại nguy cơ đó. Mỗi bàn thờ trong mỗi gia đình, mỗi dòng họ là một nơi giáo dục, răn dạy con cháu trong họ, trong làng làm người tốt cho xã hội. Từ những truyền thống dòng họ ấy, ngày nay chúng ta có  phong trào uống nước nhớ nguồn, mọi tầng lớp ghi nhớ công ơn các liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ những người khó khăn, mồ côi, neo đơn. Đó chắc chắn là vai trò to lớn của dòng họ trong việc xây dựng nhân cách cho mỗi thành viên.

Thứ hai, dòng họ trong việc giáo dục truyền thống hiếu học, trọng đạo lý, gia phong. Mối quan hệ gia đình và dòng họ là nhân tố quan trọng góp phần hình thành và phát triển nhân cách, trong đó có nếp sống, nếp ứng xử giao tiếp giữa cá nhân và xã hội. Dòng họ còn là nơi hội tụ và bảo lưu những giá trị văn hóa độc đáo, không chỉ để lại những dấu ấn trong lịch sử mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống hôm nay. Giá trị văn hóa ấy được xây dựng trên cơ sở tình nghĩa sâu nặng giữa những người cùng huyết thống, gắn bó với nhau theo quan niệm đơn giản “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “trên kính dưới nhường”, “chị ngã em nâng”, “sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì”, “anh em vì tổ vì tiên, không ai anh em vì tiền vì gạo”, tạo thành một sức mạnh truyền thống góp phần  xây dựng nên “thuần phong mỹ tục”, “trên thuận dưới hòa”, “ngoài êm trong ấm”. Đó là cơ sở cho tình yêu quê hương đất nước. Chúng ta có thể nhận định rằng dòng họ có vai trò to lớn trong việc góp phần xây dựng truyền thống uống nước nhớ nguồn. Tuy nhiên cũng cần thận trọng với việc thờ cúng nếu nó được đẩy lên quá mức sẽ tạo nên những tác động không tích cực. Rõ ràng, dòng họ không chỉ là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho  mỗi người dân  mà còn là  cơ sở của truyền thống yêu nước. Trong đó, niềm tự hào về dòng họ có nhiều người có công với đất nước là một minh chứng cụ thể.

Người trong một dòng họ thường có chung môt niềm tự hào, niềm vinh dự về dòng họ mình cũng như luôn chia sẻ với nhau niềm vui, nỗi buồn. Họ tự hào về dòng họ mình to lớn, dài lâu, trong họ có nhiều người đỗ đạt trong thi cử, thăng tiến trên con đường công danh. Tinh thần hiếu học là nét độc đáo của dân tộc Việt Nam nói chung, của mỗi dòng họ nói riêng. Họ nào cũng tôn trọng, đề cao việc học, tập quán tôn trọng nhân tài, tinh thần “tôn sư trọng đạo”, “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” để lại một truyền thống đẹp: “Cho con ba chữ không thua em kém chị”. Nhờ vậy có những gia đình, dòng họ dù nghèo khó đến đâu cũng cho con ăn học. Nhiều dòng họ dù “Sáng khoai, trưa  khoai, tối  khoai, khoai ba  bữa”  nhưng “Cha đỗ, con đỗ, cháu đỗ, đỗ cả nhà”. Việc giáo dục truyền thống hiếu học ở Quỳnh Đôi được tiến hành rất mạnh mẽ. Tất cả các dòng họ đều có ban khuyến học và quỹ khuyến học của dòng họ. Trong các quyển sử của hầu hết các dòng họ đều có phần “Khoa danh trường biên”, đây là phần ghi thành tích học hành khoa bảng của các cá nhân ở nhiều thế hệ khác nhau. Một số dòng họ còn xây cả bia trong khuôn viên nhà thờ gọi là “Bách danh đài” để ghi tên những người có công lao đối với đất nước, có công lao đối với làng xóm, dòng họ, có thành tích nổi bật trong học hành khoa bảng đã làm rạng danh cho cả dòng họ, cho làng xóm và đất nước.

Mỗi năm, trong kỳ xuân tế hoặc kết thúc năm học, trước bàn thờ tổ tiên nghi ngút khói hương, các dòng họ tổ chức báo cáo thành tích học hành của con em dòng họ trong năm đó và phát phần thưởng cho con em học hành giỏi, nhắc nhở con cháu gắng sức học hành để  ngày một làm rạng danh thêm truyền thống dòng họ. Những buổi lễ như thế có giá trị to lớn chẳng khác gì buổi lễ phát phần thưởng trong dịp tổng kết năm học ở nhà trường. Nó nuôi dưỡng ý thức thường trực về việc học, thậm chí còn coi việc học là một nghề. Những dẫn chứng đó cho thấy dòng họ có vai trò to lớn trong giáo dục truyền thống hiếu học.

2.2. Hương ước

Vai trò của hương ước:

Hương ước được coi là thiết chế có tác dụng hỗ trợ pháp luật khi Nhà nước chưa  kịp ban  hành  pháp  luật  hoặc  chưa  cần  thiết  sử  dụng pháp  luật để điều  chỉnh, được ví như “cánh tay nối dài” của pháp luật và cùng với pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện các mối quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội. Thực tế, hương ước đang được chính quyền và người dân địa phương xem như một công cụ tham gia vào quá trình quản trị cộng đồng. Vì vậy, hương ước bên cạnh việc nên được cập nhật với tình hình thực tế tại cộng đồng thì cần nhận diện cơ chế đích thực, con người cụ thể từ cộng đồng đóng vai trò chủ chốt để duy trì tập tục, quản trị cộng đồng cũng như hòa giải các vướng mắc.  

Hương ước đã góp phần đưa pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; gìn giữ, phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp của cộng đồng dân cư ở cơ sở; bài trừ các hủ tục lạc hậu; hình thành giá trị chuẩn mực xã hội phù hợp với truyền thống, bản sắc của địa phương; phát huy và mở rộng dân chủ ở cơ sở. Qua việc thực hiện hương ước đã góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nông thôn mới; phát huy quyền tự do, dân chủ ở cơ sở, động viên, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ; giúp nhân dân tham gia, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.

Nội dung của hương ước gắn với đặc điểm về văn hóa, xã hội của địa phương. Đến nay, việc xây dựng, thực  hiện hương ước còn nhằm điều chỉnh, đảm bảo thực hiện tốt các chính sách về dân số, kế hoạch hóa gia đình, giáo dục, khuyến học, y tế, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (rừng, cây trồng…). Đồng thời, trong một số lĩnh vực quản lý, hương ước được coi là một trong các tiêu chí, chỉ tiêu đánh giá kết quả, chất lượng, như: Công nhận gia đình văn hóa, thôn, làng văn hóa; công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Như vậy, có thể khẳng định, hương ước là một công cụ quản lý gián tiếp của Nhà nước trong cộng đồng dân cư. Dù đất nước ta đang ngày một phát triển, bên cạnh công cụ pháp luật để quản lý nhà nước thì vẫn cần tiếp tục xây dựng, duy trì, thực hiện và phát huy hương ước bởi những giá trị của hương ước và nâng cao hiệu quả tự quản của cộng đồng dân cư tại thôn, làng.

Nhiệm vụ của hương ước:

Các nhà nghiên cứu về văn hóa thôn, làng Việt Nam đã đúc kết: Hương ước của làng có thể xem như là một hệ thống luật tục, tồn tại song song nhưng không đối lập với pháp luật của quốc gia. Đây là thuật ngữ gốc Hán, khi du nhập vào Việt Nam nó vẫn được giữ nguyên nghĩa.

Những mặt tích cực của hương ước:  

Trước hết hương ước  góp phần làm hình thành trong làng  xã và người nông dân nhiều đức tính truyền thống và quý báu. Truyền thống đoàn kết và tính cố kết làng xã: hương ước không chỉ quy định nghĩa vụ của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng mà còn định rõ trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong đời sống thường nhật; hương ước khuyên răn mọi người ăn ở hòa thuận theo đúng đạo hiếu gia đình, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, túng thiếu hay gặp công to việc lớn trong nhà.  

Tiếp theo, là chủ động trong việc bảo vệ an ninh và thực hiện vai trò tự quản trong làng xã: trong nhiều hương ước quy định rất cụ thể nhiều khi đến ngặt nghèo, để ngăn  chặn  các  tệ  nạn  xã  hội  như  trộm  cắp,  rượu  chè,  cờ  bạc,  nam  nữ  quan  hệ  bất chính. Hay như các quy định về chế độ canh phòng bảo vệ trật tự trị an trong làng xóm, bảo vệ hoa màu ngoài ruộng đồng. Điều này đã phát huy được tinh thần tự quản, tinh thần đoàn kết và cố kết của người nông dân với làng xã làm cho cuộc sống ở đây có trật tự, làm cho làng trở thành pháo đài kiên cố ngăn chặn giặc ngoại xâm, trộm cướp. Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm địch chỉ chiếm được đô thị, kinh kỳ còn khi đến các làng chúng bị thất bại trước sự tấn công và nổi dậy mạnh mẽ của dân binh phối hợp với quân triều đình .

Thứ ba, nó góp phần quan trọng trong việc làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn: Những quy định của hương ước về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc tu bổ đến miếu, đình chùa, phục vụ lễ tết rước sách thờ Thần, thờ Phật đã được người dân tuân thủ nghiêm túc, vì lẽ này mà hệ thống đình chùa, đền miếu của các làng thường xuyên được tu  bổ tăng thêm một nét đẹp trong cảnh quan của làng xóm. Nhiều đình chùa có giá trị cao nghệ thuật kiến trúc được xây dựng ở những vị trí đẹp một không gian thoáng đãng đã trở thành niềm tự hào của không chỉ một làng mà của cả tỉnh. Bên cạnh các thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng người nông dân tổ chức nhiều lễ hội: Lễ hội nông nghiệp cầu mùa, cầu mưa, hội phồn thực giao duyên, hội hát Xoan hát Ghẹo, hát Ví, các trò diễn hội làng, các môn thể thao dân tộc: Vật, võ, cờ tướng, cờ người, ném còn thu hút sự tham gia của rất nhiều người không phân biệt sang hèn đều say mê với những lễ thức trò diễn, tưởng nhớ các vị thần có công với nước, với làng. Thông qua việc thờ cúng và các hoạt động văn hóa khác biểu lộ mối cộng cảm với nhau, xích lại gần nhau hơn. Hội làng cùng với sinh hoạt phong phú là môi trường tốt nhất để bảo tồn các giá trị di sản văn hóa, làng xã, dân tộc.

Những hạn chế của hương ước:  

Trước  hết, là tư tưởng cục  bộ địa phương, bè phái và những điều khoản của hương ước chỉ liên quan đến công việc, tới tập tục làng xã do vậy nó góp phần tạo ra tâm lý chỉ quan tâm đến lợi ích của làng mình “Ăn cây nào rào cây ấy”, “Trống làng nào làng  ấy đánh,  thánh  làng  nào làng  ấy thờ” ít  quan  tâm  đến quyền lợi  của  làng khác. Làng với kinh tế tiểu nông tự cung, tự cấp và các tổ chức xã hội riêng, tập tục riêng đã được hương ước thể chế hóa do đó làng xã trong tâm thức của người nông dân là nhất. Thành viên nào cũng mang trong mình và tự hào về điều này. Điều này giải thích tại sao có người nông dân vì danh dự của làng dẫn đến hành động “quá tả” lao vào các cuộc tranh chấp đất đai, cãi vã, ẩu đả tập thể,... thực chất chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp chức sắc, chức dịch trong làng.

Thứ  hai, việc quản lý làng  xã bằng hương ước là  một trong những cơ sở để hình  thành  lối  sống  theo  lệ  làng  không  quen  sống  với  pháp  luật,  thậm  chí  còn  coi thường pháp luật (phép vua thua lệ làng). Nhìn chung người nông dân trong làng ít được trang bị kiến thức về pháp luật và cho đến nay thì điều này vẫn còn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa miền núi dân tộc. Đây là vật cản lớn trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi những nhà quản lý phải có những biện pháp tích cực trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật cho mọi người dân để nâng cao trình độ dân trí.

Thứ ba, mặt hạn chế của hương ước xưa phải kể đến là việc góp phần làm tăng các hủ tục nặng nề trong đám cưới, đám tang, khao vọng, hội lễ. Một tác động tiêu cực khác từ hậu quả của những hủ tục trong cưới, tang, khao vọng, hội lễ đã tạo ra óc mê tín dị đoan, quá tin vào tôn thờ thế lực siêu tự nhiên; cưới xin chọn ngày chọn giờ, cô dâu chú rể phải so tuổi, tang ma cũng phải xem giờ để nhập quan mai táng, con cái báo hiếu cha mẹ phải coi trọng phần mộ (đến nay tình trạng đô thị hóa nghĩa trang ngày càng phát triển, mọi người đều xây mộ to lấn chiếm cả đất canh tác).

Từ việc nghiên cứu hương ước xưa, biết được những mặt tích cực của hương ước và những mặt còn hạn chế của nó để vận dụng trong việc xây dựng quy ước văn hoá đó là hướng đi đúng trong việc kế thừa di sản truyền thống của cha ông để lại, biết “gạn đục khơi trong” trong cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, đặc biệt trong việc xây dựng nông thôn mới. Hiện nay việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở gắn với việc xây dựng nông thôn mới và văn hóa nông thôn đang đặt ra nhiều vấn đề cho người nông dân chủ thể của xây dựng nông thôn mới. Rất nhiều mối quan hệ không chỉ trong  ứng xử  mà  còn  là  việc  thực  hiện  quy định chung về  môi trường, cảnh quan, mùa màng, không gian thoáng của hội hè , đình đám, trong các di tích đình, chùa, đền, miếu của làng, bản. Vì vậy từ hương ước xưa, chúng ta học được nhiều điều khi xây dựng quy ước văn hóa hiện nay. Bên cạnh đó, sau khi hoàn chỉnh khâu dự thảo, hương ước, hay các quy ước, lệ tục của làng xã, xóm, bản, thôn cần phải được trình lên cấp chính quyền có thẩm quyền để xem xét và phê duyệt; để từ đó tránh tình trạng “Lệ làng to hơn phép nước”.

2.3. Hội đồng tộc biểu

Bối cảnh Ra đời của Hội đồng tộc biểu:

Ngày 12 tháng 08 năm 1921, Thống sứ Bắc Kỳ Monguillot ban hành Nghị định số 1949 mang tên Nghị định chỉnh đốn lại hương hội các xã Bắc Kỳ. Điểm chủ yếu của Nghị định này là sự thay thế Hội đồng kỳ mục truyền thống bằng một Hội đồng tộc biểu. Chính vì vậy, ngày 12 tháng 08 năm 1921, Thống sứ Bắc Kỳ Monguillot ban hành Nghị định số 1949 mang tên Nghị định chỉnh đốn lại hương hội các xã Bắc Kỳ. Điểm chủ yếu của Nghị định này là sự thay thế Hội đồng kỳ mục truyền thống bằng một Hội đồng tộc biểu.  

Hội đồng tộc biểu là cơ quan quản lí làng của người Việt ở đồng bằng, trung du Bắc Bộ, được thành lập trong khuôn khổ cuộc “cải lương hương chính” năm 1921 của thực dân  Pháp.  Nhằm  thay đổi  mạnh mẽ cơ  chế quản lí  để  nắm  chặt  hơn các  làng người Việt, Thống sứ Bắc Kỳ ra Nghị định số 1949 ngày 12/8/1921 có nội dung cơ bản là bãi bỏ hội đồng kì mục – cơ quan quản lí truyền thống của làng, thay thế bằng Hội đồng tộc biểu.  

Nhiệm vụ vai trò:

Nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng vai trò của Hội đồng tộc biểu được quy định rõ trong bản hương ước cải lương của các làng được soạn thảo theo mẫu của chính quyền thực dân Pháp. Việc lập Hội đồng tộc biểu thay thế Hội đồng kì mục gây ra sự xáo trộn lớn về cung cách quản lí làng xã.

Hội đồng tộc biểu ra đời theo cơ chế tuyển cử, vừa đại diện cho họ, đại diện cho làng xã, có nhiệm kỳ là 3 năm và đây điều hoàn toàn mới ở nông thôn, tạo điều kiện cho xã dân tham gia công việc của làng. Tầng lớp kỳ mục lặng lẽ rút khỏi vị trí quản lý làng xã ở giai đoạn thử nghiệm, quay trở lại từ giai đoạn 2 (1927 – 1941) và chiếm vị trí quyết định và giám sát ở giai đoạn 3 (1941 – 1945) để phục vụ cho lợi ích của chính quyền. Chính quyền thực dân kiểm soát ngân sách làng xã bằng cách bắt lập sổ thu chi, bất cứ thu chi nào cũng phải có sự cho phép của chính quyền cấp trên và các làng đối phó lại bằng cách tách làng to thành hai làng nhỏ để không đủ điều kiện phải lập sổ thu chi.  

Hội đồng tộc biểu có chức năng và quyền hạn giống như Hội đồng kỳ mục, cụ thể là: Quản trị mọi mặt đời sống văn hóa, xã hội, tổ chức thi hành các mệnh lệnh của chính quyền cấp trên, phân chia công điền, san bổ sưu thuế, đặt lệ, quản lý các tài sản, xét xử những tranh chấp dân sự giữa các xã dân, tổ chức các sinh hoạt văn hóa cộng đồng theo phong tục tập quán, quản lý các nguồn thu chi của làng xã. Hội đồng tộc biểu vừa là cơ quan quyết định, vừa là cơ quan thi hành các quyết định đó thông qua các tộc biểu và bộ phận hành dịch trong làng. Ngoài ra, nghị định này cũng thể hiện r  việc tăng cường sự giám sát của nhà nước đối với bộ máy quản lý làng xã, đặc biệt là vai trò của Lý trưởng cũng như sự giám sát trên phương diện tài chính với việc lập ra ngân sách xã. 

Một số nhận xét:

Hội đồng tộc biểu mà Pháp gọi là Hội đồng hành chính tuy có tên gọi với dáng vẻ cổ truyền nhưng là một thiết chế hoàn toàn mới với xã thôn Việt Nam. Nó bao gồm chủ yếu các người giàu có trong làng, đại diện cho các dòng họ, phát sinh phát triển cùng với chế độ thuộc địa...

Có thể nói, cơ chế tuyển cử mang lại bộ mặt dân chủ mới ở làng xã nhưng đồng thời cũng đã thủ tiêu địa vị, quyền uy, lợi lộc có từ lâu đời của kỳ mục. Vì vậy, việc thay thế Hội đồng kỳ mục bằng Hội đồng tộc biểu đã gây ra sự xáo trộn lớn về nhân sự, tâm lý, tập quán. Vì thế, trong nội bộ làng xã ở Bắc Kỳ đã diễn ra một cuộc tranh giành quyền lực ngấm ngầm, đôi khi công khai giữa một bên là Hội đồng tộc biểu mới cầm quyền và  một bên là  thành  viên  của  Hội đồng  kỳ mục  cũ.  Tình  hình đó buộc Thống sứ Bắc Kỳ phải ra quyết định thay đổi lại bộ máy quản lý làng xã vào năm 1927 nhằm khắc phục những hậu quả do Nghị định năm 1921 gây ra và bổ sung một số điều cần thiết. Tuy nhiên Hội đồng tộc biểu sau 20 năm được chính phủ bảo hộ dựng lên đến năm 1941 bị giải thể. Hội đồng kỳ mục được thay thế và trở thành cơ quan duy nhất điều hành mọi công việc của làng xã với sự giúp việc của các chức dịch thừa hành đứng đầu là Lý trưởng. 

2.4. Giáp

Giáp là một hình thức tổ chức tập hợp theo giới tính, chỉ dành riêng cho nam giới, theo nguyên tắc cha vào giáp nào thì con trai sinh ra cũng vào giáp ấy, không phân biệt nơi cư trú theo xóm ng  trong làng. Một làng  có nhiều giáp.  Chẳng hạn, làng Tương Mai trước đây thuộc huyện Thanh Trì có 4 giáp: giáp Đông Thái, giáp Đông Thịnh, giáp Đoài Nhất, giáp Đoài Tiên; làng Ngọc Trục huyện Từ Liêm có 4 giáp: giáp Đại Thuận, giáp Tiền Hữu, giáp Trung Hậu, giáp Dương Thịnh; làng Thổ Khối có 6 giáp;... Số lượng giáp trong làng không cố định ít nhất 2 giáp và nhiều nhất lên tới 18 giáp. Việc đặt tên giáp cũng không theo nguyên tắc nào, tùy theo từng làng mà có tên gọi khác nhau. Ở một số làng, số họ nhiều nhưng số giáp ít, một giáp có thể gồm nhiều họ.

Vai trò, nhiệm vụ của Giáp:

Trên thực tế, giáp là một hình thức tổ chức tồn tại lâu bền, có tổ chức, có người điều hành, có cơ sở kinh tế để tồn tại, đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt làng xã  ở  nông  thôn  đồng  bằng  Bắc  Bộ.  Điều  này  được  thể  hiện  r   ràng  trong  tài  liệu hương ước. Trong các điều khoản của hương ước quy định r  trong sinh hoạt làng xã, với tổ chức theo giới có quy củ, thứ bậc, chặt chẽ, có thể lệ khi vào Giáp, góp phần để thực hiện nghĩa vụ với tập thể, đóng một vai trò chủ yếu trong mọi sinh hoạt làng. Có thể nói, chính quyền Nam triều và chính quyền Pháp đã lợi dụng tổ chức giáp ở mỗi làng để bắt làng xã thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước.

Tổ chức  Giáp  xuất  hiện  từ  sớm  nhằm  thoả  mãn  một  loại  mối  quan  hệ  giữa người và người: Quan hệ tuổi tác. Trong bối cảnh của làng xã Việt Cổ truyền, giáp là một “Môi trường xã hội đặc biệt để cho con người thăng tiến hoặc tiến thân”. Có điều là ở đây con người không tiến thân bằng cách tích luỹ của cải vật chất, (không phải bằng ruộng đất hay bằng cách chạy chọt một chức vụ chính quyền, một phẩm hàm do nhà nước quân chủ ban cấp), mà tiến thân bằng tuổi tác. Những chức trách mà từng người tuần tự đảm nhiệm trong quá trình sinh hoạt với giáp, được ngôn ngữ sinh động và cô đọng của  dân quê  gộp  lại trong  khái niệm “xỉ tước”;  tức tước phẩm do răng (nghĩa là tuổi tác) mang đến, đối lập với “quan tước “tức tước phẩm do bộ máy quan lại cấp. Đấy là nguyên tắc “trọng xỉ”, khiến cho Giáp mang một diện mạo đặc biệt giữa một nông thôn “quân chủ hoá” (thường nhấn mạng tước phẩm).

Trong giáp, mối quan hệ giữa các thành viên vừa là quan hệ họ hàng, vừa là quan hệ xóm làng, nhưng mối quan hệ chính là theo lớp tuổi. Trong giáp, các thành viên được xếp theo lớp tuổi. Mỗi lớp tuổi là một nấc tiến thân, có địa vị, có quyền lợi và nghĩa vụ nhất định được kính trọng dần dần theo tuổi càng ngày càng cao. Bé trai dưới 18 tuổi mới là thành viên dự bị, chưa có nghĩa vụ nặng nề. Khi đến 18 tuổi, nam thanh niên được ghi tên vào sổ đinh của giáp (và của làng); là thành viên chính thức của giáp, có một vị trí nhất định trong hệ thống các cấp bậc của tổ chức ấy; có một chỗ ngồi trên một chiếu nhất định qua mỗi kỳ họp giáp, dù họp để bàn bạc hay để ăn uống. Và thành viên  đó cũng phải có nghĩa  vụ, trước hết là đóng  góp tiền gạo  cho Giáp mỗi khi có việc làng, sau đó tham gia làm thịt, nấu nướng, bưng mâm,...

Chức năng phục vụ tập thể ấy cũng sẽ được nâng cao dần theo tuổi tác. Ngoài ra, phải thực hiện các nghĩa vụ đi tuần trong làng, đi phu cho hàng xã, hàng huyện và đi lính cho nhà nước... Mối quan hệ trong giáp đã ràng buộc các thành viên phải theo đúng thứ bậc của mình trong giáp và trong họ,... Trong giáp địa vị của mỗi người là do lớp tuổi của người đó tự xếp hạng, việc tôn trọng người nhiều tuổi hơn được thể hiện  trong  các  bàn  trưởng  và  lềnh,  người  nhiều  tuổi  nhất  đương  nhiên  làm  giáp trưởng, thu xếp mọi việc trong giáp. Việc tôn trọng người theo tuổi còn được thể hiện trong chỗ đứng khi tế thần và chiếu ngồi khi ăn cỗ sau tế lễ.

2.5. Hội đồng kỳ mục

Hội đồng kì mục là cơ quan quản lí truyền thống của làng xã người Việt ở đồng bằng, trung du Bắc Bộ. Hội đồng được xác lập vào nửa sau thế kỉ XV, khi Nhà nước phong kiến bỏ chế độ xã quan (quan lại do Nhà nước cử về nắm làng xã). Hội đồng có toàn quyền đối với các vấn đề lớn trong đời sống của làng như sửa đổi và bổ sung hương ước, chia hoặc đấu thầu công điền công thổ, quản lý theo kỳ hạn, đấu giá tài sản và thu chi ngân sách, sửa chữa đình chùa, mở hội, quan hệ với các làng khác... Hội đồng kỳ mục hoạt động không có nhiệm kỳ hạn định và hoàn toàn độc lập với chính quyền nhà nước cấp trên, chính quyền phong kiến cấp xã muốn thực thi các nhiệm vụ của mình phải nhờ sự giúp đỡ của Hội đồng kỳ mục.

Đứng đầu Hội đồng kỳ mục là một Tiên chỉ, là người có phẩm hàm hay học vị, chức tước cao nhất trước khi về hưu. Khi có người cao hơn thì nhường chức Tiên chỉ cho người đó để trở thành Cựu Tiên chỉ. Dưới Tiên chỉ có Thứ chỉ.

Tháng 8-1821, nhằm cải tổ cung cách quản lý của làng xã để nắm chặt làng xã hơn nữa, chính quyền thực dân Pháp ở Bắc Kỳ bãi bỏ Hội đồng kỳ mục, thay thế bằng Hội đồng tộc biểu. Song, Hội đồng tộc biểu không đảm đương được nhiệm vụ nên đến năm 1927, thực dân Pháp phải lập lại Hội đồng kỳ mục, làm nhiệm vụ tư vấn cho Hội đồng tộc  biểu.  Đến năm  1941, Hội đồng tộc  biểu bị  bãi bỏ, Hội đồng kỳ mục làm nhiệm vụ của Hội đồng tộc biểu, như nó từng tồn tại 20 năm trở về trước.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, hệ thống chính quyền cách mạng ra đời, Hội đồng kỳ mục và bộ máy chức dịch ở các làng xã bị xóa bỏ. Tuy nhiên, trong kháng chiến chống Pháp (1947-1954), ở các làng tạm bị chiếm, thực dân Pháp lập lại Hội đồng kỳ mục cùng chức dịch (gọi chung là bộ máy tề) để chống phá kháng chiến.  Đến  thời  chống  Mỹ,  cách  gọi  này  cũng  được  dùng  để “định  danh”  các  lực lượng phản cách mạng như bạn đọc đã nêu trong câu hỏi.

2.6. Phường

Trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp; tuy nhiên nhiều làng có những bộ phận cư dân sinh sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một nguyên tắc tổ chức thứ ba là tổ chức theo nghề nghiệp,  tạo thành đơn vị gọi là  PHƯỜNG.  Ở nông  thôn có thể  gặp hàng  loạt phường như phường gốm làm sành sứ, phường nề làm nghề xây cất, phường chài làm nghề đánh  cá,  phường  vải  làm  nghề  dệt  vải,  rồi  những  phường  nón,  phường  giấy, phường mộc, phường thợ tiện, phường đúc đồng…

Vd:Làng Gốm  Bát  Tràng  (Hà  Nội),  làng  Gốm Bầu  Trúc (Ninh  Thuận), làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng), làng nghề trống Đọi Tam (Hà Nam), làng dệt thổ  cẩm  Mỹ  Nghiệp  (Ninh  Thuận),  làng  nghề  thuyền  thúng    (Phú  Yên),  làng  nghề khảm trai Chuôn Ngọ (Hà Nội),...

Một số nghiên cứu cho thấy, trong bối cảnh đất nước bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các làng nghề cổ truyền có các sản phẩm gắn kết với các yếu tố văn hóa truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam. Nếu không có văn hóa thì làng nghề phát triển vô hồn, chập chững, khó đứng vững trước những thách thức của nền kinh tế thị trường. Các làng nghề cũng cho thấy tiềm năng  to lớn  để khai  thác các  sản phẩm du lịch  – văn hoá  phát triển  theo hướng bền vững, thông qua đó giúp bảo tồn văn hoá, phát triển kinh tế xã hội ở các làng nghề truyền thống. Ngược lại các làng nghề truyền thống cũng tạo nên sức hấp dẫn độc đáo thu hút du khách và tạo những tác động tương tác với du lịch trong một mục tiêu phát triển chung.

2.7. Hội

Hội tư văn: là những thành viên trong một làng xã học chữ Nho, thường được gọi là hội của những kẻ sĩ dân gian ở làng quê. Sự ra đời của hội tư văn là kết quả của sự phát triển và tiếp thu Nho giáo cả về tư tưởng, văn hóa của các làng xã người Việt mấy thế kỷ trước. Khi đó, trong các làng xã hình thành nên một số đông người học chữ Nho, sau đó là các thế hệ kế tiếp nhau theo Nho học; do nhu cầu tự nhiên của cuộc sống đã làm nảy sinh Hội Tư văn. Ở thế kỷ XVI một số làng xã đã xuất hiện Hội Tư văn. Gốc gác của những người tham gia Hội Tư văn đều học chữ Nho. Họ tập hợp lại cùng sinh hoạt, giống như ngày nay người ta tập trung cùng hoạt động ở một câu lạc bộ chuyên ngành. Tôn chỉ, mục đích của Hội Tư văn là trọng đạo học, đề cao bậc thánh hiền – Khổng Tử và 72 học trò thành đạt của Ngài cùng những bậc tiên hiền đậu đạt ở làng quê. Với tôn chỉ, mục đích cao cả trên, Hội Tư văn đề ra những tiêu chuẩn xét  nhận và thu nạp thành viên riêng. Trước hết, việc kết nạp thành viên nhằm vào những người đã học chữ Nho: Nho sinh, Sinh đồ, Giám sinh, thi đỗ hoặc không thi đỗ. Với tiêu chuẩn xé chọn như vậy, ở một làng nông nghiệp bình thường khi Nho học chưa phát triển thì số thành viên của Hội Tư văn sẽ rất ít.

Xét về hình thức, Hội Tư văn không chia lẻ như các giáp. Một làng, một xã cụ thể chỉ có duy nhất một Hội Tư văn. Đứng đầu Hội Tư văn do Văn trưởng hay Hội trưởng Hội Tư văn, do Hội bầu chọn. Hội trưởng là người phải có uy tín, quy định tuổi đời phải từ 35 tuổi trở lên. Hội trưởng chịu trách nhiệm điều khiển các hoạt động của Hội. Giúp việc đắc lực cho Hội trưởng từ cuối thời Lê đến đầu thời Nguyễn là Điển văn, do Hội cử ra. Điển văn lo giữ các giấy tờ, sổ sách của Hội, nhiệm vụ chính là lo văn tế trong các dịp lễ Xuân – Thu, Kỳ an, Kỳ phúc và lễ hội làng hằng năm. Điển văn có thể tham gia soạn tế, hoặc giao cho viên Tả văn lo soạn. Do vai trò đặc thù của Hội Tư văn nên tổ chức nhân sự của Hội gọn nhẹ, đơn giản, gồm Hội trưởng – Điển văn – Tả văn. Khi xem xét vai trò và hoạt động của Hội thông qua hương ước hay khoán ước riêng của Hội sẽ thấy rõ thêm. Vai trò chính của Hội Tư văn là làm chủ tế cho các lễ, tế hay là cầu an của làng xã, chủ tế phải là người hiểu chữ nghĩa, có hiếu hạnh, phu phụ (chồng vợ song toàn), không vướng bụi (không có đại tang).

Do hiểu lễ nghĩa Nho giáo nên chủ tế đảm đương từ việc xét duyệt nội dung các kỳ tế Xuân – Thu, Cầu an, Cầu phúc, hội làng và các lễ tiết khác theo nông lịch trong một năm, đồng thời trực tiếp điều khiển hành lễ đúng theo khuôn phép Nho giáo và tập quán truyền thống của làng xã. Các thành viên trong Hội đều được tham dự vào lễ tế tại đình, hoặc ở Văn chỉ. Thành viên Hội Tư văn thường được mời dự lễ hiếu, hỷ ở làng. Sự hiện diện của Hội Tư văn vừa làm hãnh diện cho gia chủ, vừa là thành viên giám sát các lễ thức diễn ra theo đúng tập quán truyền thống  . Ngoài việc tham dự tế lễ, Hội Tư văn ở nhiều làng có thành viên tham gia vào bộ máy quản lý làng xã, giữ chức Xã trưởng, Lý trưởng, Khán thủ, Trương tuần hoặc cầm trịch việc hội họp đình trung, hương ẩm, tham gia vào việc khuyến học ở làng. Ở một số làng, Hội Tư văn tham dự Hội đồng sát hạch học trò kỳ thi đầu năm, trước khi sĩ tử tham gia thi hương. Tư văn là thành viên tích cực nhất cỗ vũ và gìn giữ học phong ở làng xã. Những kẻ sĩ Hội Tư văn gắn bó với cuộc sống làng quê, gần gũi dân làng. Họ đem chút kiến thức Nho học để phụng sự đời sống văn hóa tâm linh vốn được lưu truyền ở làng. Có thể coi Hội Tư văn là cột trụ, là chỗ dựa của đời sống tâm linh ít nhiều ảnh hưởng của Nho giáo và ảnh hưởng sâu đậm của tín ngưỡng dân gian nông nghiệp. Tóm lại, trong xã hội làng xã cổ truyền không thể thiếu vai trò của Nho sĩ – trí thức – Hội Tư văn, một tổ chức xã hội khá quy củ và có mặt ở hầu khắp các làng quê với vai trò nổi trội trong đời sống tâm linh, văn hóa nêu trên.

Hội  Hương  binh  (Hội  tư  v ):  tập  hợp  những  người  cựu  chiến  binh,  những người lính đã giải ngũ sau một quãng thời gian phục vụ trong quân ngũ nay trở về làng, bất kể họ là lính trơn hay đã thăng hàm Đội trưởng, Ngũ trưởng... đều được vào hội Hương binh. Những người lính đảo ngũ bỏ nhiệm vụ không được mời tham gia Hội. Hội hương binh cũng là một hình thức tổ chức xã hội tự nguyện làng xã. Song, tổ chức có phần lỏng lẻo, những cựu chiến binh có thể tham gia hoặc không tham gia Hội Hương binh. Đứng đầu Hội Hương binh là viên đội trưởng, do cả Hội cử ra để điều hành chung công việc của Hội. Thời hạn làm Hội trưởng kéo dài từ một đến hai năm, tùy theo từng làng xã quy định. Hội Hương binh cũng xây dựng Vũ chỉ - một ngôi nhà giống như Văn chỉ của Hội Tư văn, làm một nơi hội họp, ăn uống khi hữu sự. Tuy vậy, không phải nơi nào cũng có Hội hương binh là nơi đó đều có Vũ chỉ. Hương binh cũng tham gia vào những dịp lễ tế ở đình làng với tư cách là thành viên của các giáp hay thành viên hay các tộc họ.

Trong số những cựu chiến binh ở làng xã, nhiều người đã từng tham gia trận mạc vào sinh ra tử, lập được chiến công hiển hách, nên dân làng rất tin tưởng khi họ có chân trong đội tuần đinh, giữ chức Trưởng phiên, Trương tuần. Hội Hương binh được coi là nòng cốt trong việc tuần phòng bảo vệ làng xã. Dĩ nhiên, ngoại trừ nhiều thành viên thành viên của Hội do thành tích phục vụ trong quân ngũ đã được miễn trừ tuần phu, tạp dịch chung thân. Hội gắn bó với nhau không chỉ để nhớ lại những kỉ niệm quân ngũ về những ngày tháng gian khổ và vinh quang, mà điều quan trọng là sự sẻ chia cuộc sống đầy vơi của những thàng ngày còn lại nơi quê nhà. Đối với Hương binh cũng được dân làng cũng được dân làng nể trọng, biểu hiện từ cách xưng hô đến việc chia biếu phần, miễn giảm tạp dịch và vị trí chỗ ngồi xứng đáng ở đình trung. Hương binh – hưu binh, vai trò của Hội dù sao cũng hạn chế. Song, sự góp mặt của Hội khiến bức tranh xã hội của làng quê thêm phong phú sắc màu.

3. Một số liên hệ hiện nay

3.1. Thiết chế hương ước làng

Hương ước của làng xã Việt Nam hiện đại được thiết lập từ sau khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung trong Đảng khóa VI năm 1988, về việc giao khoản ruộng đất cho các hộ gia đình (thường gọi là Khoán 10). Nhờ chủ trương này mà sản xuất nông nghiệp khởi sắc, kéo theo các hoạt động truyền thống được khôi phục, đặc biệt là việc tái tạo hương ước mới, thường được gọi là quy ước của làng xã hay quy ước văn hóa. Thông thường quy ước chia theo chương, mục, bao gồm khoảng 10 chương với trên 30 điều, như các chương về Quy định chung và quy định cụ thể, về phát triển kinh tế, về nếp sống văn hóa gia đình, về việc cưới, về việc tang, về lễ hội, về việc mừng thọ, về việc bảo vệ an ninh vệ sinh môi trường, về khen thưởng và về tổ chức thực hiện. Một số hương ước khác ngắn gọn hơn, chủ yếu tập trung ở các hoạt động liên quan đến văn hóa xã hội, như Quy ước làng Trung Liệt (Từ Sơn, Bắc Ninh soạn năm 1991), gồm 6 chương 17 điều sau: Những quy định chung, Lễ nghi tôn giáo, Nếp sống văn hóa, Đạo lý gia đình - xã hội, An ninh - trật tự xóm làng và cuối cùng là Tổ chức thực hiện - Khen thưởng - Kỷ luật11.

Các quy ước trên tuy đã có sự điều chỉnh, song hầu như chưa kịp bắt nhịp với cuộc sống đầy biển động nơi làng xã, trước công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông thôn. Một trong những biểu hiện của sự xáo trộn đó là dân cư và nghề nghiệp. Đối với vùng ven đô, dân cư xáo trộn bởi các cuộc li nông và li hương ; còn đối với làng quê thuần nông thì ngày càng có nhiều lao động dời nông thôn, bỏ nghề làm nông đến đô thị, tìm nghề nghiệp khác. Sự xáo trộn đó đã kéo theo sự thay đổi cảnh quan và lối sống12. Thực tế trong sinh hoạt làng xã hiện nay, vẫn diễn ra hết sức sôi động, nhất là trong những năm gần đây, đời sống kinh tế xã hội phát triển, kéo theo nhu cầu khôi phục sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa truyền thống. Cụ thể như, hầu hết các làng xã cổ truyền đều có nhu cầu khôi phục lễ hội, nghi thức thờ cúng Thành làng. Vì thế các tập tục  cũ,  các  điều  lệ  cố  truyền  liên  quan  đến  hoạt  động  tín  ngưỡng  được  phục  hồi. Chẳng hạn lễ hội làng Chăm (Tử Liêm, Hà Nội) được phục dựng mấy năm gần đây, nhiều nghi thức, quy ước được đặt ra để thực thì. Toàn dân tích cực chuẩn bị và tham gia một cách tự nguyện và hồ hởi các hoạt động trong kỷ lễ hội. Tuy rằng trong quy ước mới của làng không có những điều ước cụ thể về tổ chức lễ hội, song mọi hoạt động vẫn diễn ra nhờ vào tập tục vốn có từ xưa do các điều lệ hương ước quy định13.

Gần đây, trong các cụm dân cư ở thành phố và làng xã vùng nông thôn đã xây dựng quy ước mới khá ngắn gọn, bao gồm những điều khoản cụ thể hơn, thiết thực hơn, như chấp hành vệ sinh công cộng, giữ gìn trật tự, an toàn trong cụm dân cư, nơi làng xã.... Chẳng hạn, có làng xã quy định bỏ lệ mới thuốc là trong tang lễ, cưới hỏi. Ai cũng biết, hút thuốc lá vừa có hại sức khỏe, lại tồn kém, những theo thời quen thì không ai tự tiện bỏ được. Tuy nhiên, khi có điều lệ được dân làng tán đồng, thực hiện, thì vấn đề trở  lên  giản  đơn  hơn nhiều. Một  quy ước  khác  cũng rất  thiết  thực  được nhiều địa phương thực hiện. Đó là khi gia đình có việc hiếu, việc hỉ, thì không mở nhạc, kèn  trống quá  12h  đêm để đảm bảo  giấc  ngủ  bình  an  cho  làng  xóm...  Chính những điều này đã có tác dụng nhất định trong việc làng xã tự quản trong sinh hoạt cộng đồng. Hơn nữa, điều quan trọng hơn là việc tổ chức, thực hiện các điều ước này. Trước kia, hương ưóc thường được đọc trước dân làng trong kỷ lễ đầu xuân ở đình làng, nơi  Thành hoàng làng tôn nghiêm. Bên cạnh đó là sự đôn đốc, theo dõi sát sao của các đương cai trong năm của làng, với hình thức thưởng phạt nghiêm minh, đôi khi có phần khác nghiệt, nên điều ước được thực thi khi hiệu quả. Ngày nay các yếu tố đó không còn, nên cần khắc phục để duy trì và phát huy tối đa hiệu quả quy ước mới với vai trò là công cụ tự quản của làng xã14.

=> Nhìn chung, sự biến đổi của hương ước mới hay xây dựng quy ước làng văn hoá ngày nay nảy sinh trong những điều kiện mới, khi mà làng xã đang đứng trước thách thức lớn trong sự biến động nhanh chóng của công cuộc hiện đại hoà nông thôn. Do vậy không ít điều khoản trong quy ước làng còn bộc lộ khiếm khuyết, thiếu tính khả thi.  Chính  vì thế,  cũng như hương  ước  cổ truyền, quy ước  làng cần được điều chỉnh, bổ sung thường xuyên để kịp thời khắc phục những khiếm khuyết và bắt nhịp với sự biến đổi kinh tế, văn hoá xã hội, sự hiểu biết pháp luật ngày một nâng cao ở từng  địa  phương.  Và  như  vậy,  thì  quy  ước  hiện  đại  mới  có  thể phản  ánh  kịp  thời những biến đổi trong sinh hoạt cộng đồng và không làm cho hương ước mới đánh mất đi vai trò công cụ quản lý làng xã mà hương ước truyền thống đã tạo dựng.

3.2. Thiết chế dòng họ

Sự biến đổi của thiết chế dòng họ trong làng xã hiện nay được xem xét ở một số góc độ sau:

Dựa trên  trên góc  nhìn  về  quản  lý  và  quyền lực,  nếu  như  trước  đây  ở  nông thôn, với sự đan xen của nhiều nguyên lý tập hợp người khác nhau như lớp tuổi (giáp), địa vực (xóm, ngõ), sự tự nguyên (phe, phường, hội) và nhất là về kinh tế (giai cấp, tầng lớp) làm cho dòng họ không phải là một đơn vị thống nhất và duy nhất để có thể quyết định mọi điều, thì ngày nay, với sự bổ sung của các nhân tố mới như Đảng, các đoàn thể và nhất là sự tác động của kinh tế thị trường, điều này làm cho các quan hệ dòng họ càng không thể giữ vai trò quyết định trong đời sống chính trị - xã hội trong làng xã. Về khía cạnh văn hoá tinh thần, nhờ việc tạo ra “một nền cộng cảm dựa trên huyết thống”, thiết chế dòng họ từ xưa đến nay vẫn được coi là chỗ dựa “vững chắc và vĩnh hằng” của từng thành viên, bất luận trong hiện thực có diễn ra như thế nào thì là trong quan niệm của người dân, dòng họ vẫn có vị trí và vai trò cực kì quan trọng15.  Bên cạnh  đó, hiện nay dòng  họ vẫn  giữ được các  hoạt động truyền thống trước đó như: sự tham dự các cá nhân trong dòng họ vào những ngày giỗ tổ, tham gia vào việc sửa sang từ đường, xây cắt mồ mà tổ tiên hay trong các việc cưới xin, ma chay khuyến học, khuyến tài trong dòng họ. Nhìn chung, trong bối cảnh công nghiệp hoả, hiện đại hoà và nhất là trong điều kiện của nền kinh tế thị trường như hiện nay,  gia đình, dòng họ đã có sự biến đổi mạnh mẽ về mặt thiết chế  cũng như có sự biến đổi về mặt giả trị theo chiều hướng tích cực để không bị lãng quên và mai một đi. Theo đó những giá trị về gia đình, dòng họ không  chỉ ở  khả năng đối mới và thích ứng, mà còn cả ở sự trường tồn của chúng.

Tài liệu tham khảo

1. Bài viết: https://123docz.net//document/3367152-vai-tro-cua-lang-xa-viet-nam-trong-van-de-giu-nuoc.htm.

2. Bài Xuân Đính (1996), “Về một số hương ước làng Việt ở đồng bằng Bắc bộ”. Luận án Tiến sĩ khoa học Lịch sử, Hà Nội 1996.

3. Đinh Khắc Thuận (2008)  “Nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa truyền thống làng xã Việt Nam trong quá trình đô thị hóa qua trường hợp của làng Hoàng Mai (Hà Nội)”. Tham luận Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba.

4. Đinh Khắc Thuân (2013), “Hương ước làng xã người Việt từ truyền thống đến hiện đại”. Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ tư. Nxb, ĐHQGHN. H, 2013.  

5. Đỗ  Hữu  Bảng  (2019),  “Văn  hóa  làng  xã  của  người  Việt”, http://baotangbacninh.vn/van-hoa-lang-xa-cua-nguoi-viet/.

6. http://binhminh25102016.blogspot.com/2016/09/vai-tro-cua-lang-viet-trong-dung-nuoc.html.

7. http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn/khoa-xay-dung-dang/vai-tro-cua-huong-uoc-trong-quan-ly-va-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-giai-doan-hien-nay.html.

8. http://ubmttqvn.quangtri.gov.vn/thi-dua-khen-thuong/nguoi-viet-voi-van-hoa-lang-xa-707.html.

9. https://123docz.net/document/2591046-phat-giao-voi-viec-cung-co-lien-ket-cong-dong-lang-xa-viet-nam-hien-nay.htm.

10. Mai Văn Hai (2009), “Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là các giá trị văn hóa cơ bản của văn hóa làng Việt”. Tạp chí Xã hội học số1/2009.

11. Nguyễn Duy Thụy – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2020), “Thách thức  đối  với  sự  phát  triển  làng  xã  Việt  Nam  hiện  nay”, https://thanhdiavietnamhoc.com/thach-thuc-doi-voi-su-phat-trien-lang-xa-viet-nam-hien-nay/, tải ngày 19/2/2020.

12. Nguyễn Quang Ngọc (2009), “Một số vấn đề làng xã Việt Nam”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trang 45. 13. Thái  Vũ  (2019),  “Làng  xã  xưa  và  nay”,  https://dangcongsan.vn/mung-dang-mung-xuan-2017/dat-nuoc-vao-xuan/lang-xa-xua-va-nay-511878.html

Nguồn: studocu.com

Xem thêm: Giới thiệu về vịnh Hạ Long

Các bài viết khác

Xem thêm
Địa chí Quảng Trị công trình bách khoa thư đặc biệt quan trọng
Địa chí14/06/2023

Địa chí Quảng Trị công trình bách khoa thư đặc biệt quan trọng

Địa chí là loại sách ghi chép một cách tổng hợp các mặt từ địa lý tự nhiên, địa hình, địa chất, thời tiết, khí hậu đến sản vật, phong vật, cộng đồng dân cư, tộc người, đến chính trị kinh tế, lịch sử, văn hóa xã hội... của một quốc gia, một khu vực, một tỉnh thậm chí của một làng, một xã. Không chỉ sách địa chí ngày nay, mà từ xưa các bộ địa chí cổ của Việt Nam đều có mục đích cung cấp kiến thức hiểu biết toàn diện và hệ thống về mảnh đất con người nói chung hay một vùng lãnh thổ - hành chính - cư dân tùy theo từng cấp độ đã được hình thành trong tiến trình lịch sử.

Dấu tích cảng bến - Thương mại và đặc điểm kinh tế, tín ngưỡng vùng hạ lưu sông Thái Bình thế kỷ XVII-XVIII (Qua các kết quả khảo sát thực địa và tư liệu văn hóa) (Tiếp theo và hết)
Địa chí15/09/2023

Dấu tích cảng bến - Thương mại và đặc điểm kinh tế, tín ngưỡng vùng hạ lưu sông Thái Bình thế kỷ XVII-XVIII (Qua các kết quả khảo sát thực địa và tư liệu văn hóa) (Tiếp theo và hết)

2. Vùng hạ lưu sông Thái Bình thế kỷ XVII - XVIII qua tư liệu văn bia. Văn bia vùng hạ lưu sông Thái Bình được chúng tôi lựa chọn phân tích bao gồm 266 tấm bia (21) của 140 xã thôn bên bờ các dòng sông Luộc, sông Mía, sông Thái Bình, sông Văn Úc thuộc các huyện Tiên Minh, An Lão, Nghi Dương, Tứ Kỳ của trấn Hải Dương thời Lê (tương đương khu vực thuộc các huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, An Lão, Kiến Thụy, Thành phố Hải Phòng và huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương hiện nay). Như vậy, trung bình mỗi xã ở khu vực này có 1.9 bia. Nếu chỉ tính các làng xã có văn bia thì trung bình có 3.8 bia/1 đơn vị làng xã (con số này ở Kinh Bắc chỉ có 3.2) (22). Trong tổng số các đơn vị hành chính, số làng xã có văn bia chiếm gần 50% (trong khi đó trên toàn bộ trấn Kinh Bắc số làng xã có văn bia chỉ chiếm 28,4%) (23) tổng số các đơn vị xã thôn.

Nguồn: Internet
Lễ Hội12/09/2023

Hát bóng rỗi và tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ, Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137). 2017

Hát bóng rỗi là loại hình nghệ thuật tổng hợp có chức năng thực hành nghi lễ tại cơ sở tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ. Trong cuốn Gia Định thành thông chỉ của Trịnh Hoài Đức biên soạn đầu thế kỷ XIX có đề cập tới thói quen: “tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần như bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động; quen gọi các phu nhân tôn quý bằng bà: bà Thủy Long, bà Hỏa Tình, cô Hồng, cô Hạnh…” (1) của người Gia Định. Còn sách Đại Nam nhất thống chí viết: ở tỉnh Định Tường thường “hay dùng cô đồng mùa hát, lấy làm vui thích”. (2)